Đã lâu lắm rồi tôi không được xem anh thi đấu,6 năm rồi thì phải. Cũng từng ấy năm tôi sống trong niềm tiếc nhớ những pha bóng đẹp như pha lê của anh. Tôi cũng chờ đợi từng ấy năm ngày anh trở lại.
Một ngày hè tháng 7, ngày đó tôi được biết Barca có một cầu thủ mới, một tiền vệ mang áo số 10. Trong đầu tôi tự hỏi làm sao một tiền vệ lại được phép khoác trên mình số áo của Romario. Đến Ronaldo cũng chưa bao giờ được khoác. Và ngay trong buổi đầu phỏng vấn ra mắt CLB, tôi đã thấy một chàng trai Brazil với khuôn mặt khắc khổ, một DonKihote của bóng đá thế giới. Bài phát biểu của anh giúp tôi hiểu đây là cầu thủ có thể vực Barca đứng dậy sau khi Ronaldo ra đi.
Làng túc cầu thế giới từ nay đã được chiêm ngưỡng một thứ bóng đá đẹp mắt, một tinh hoa bóng đá nhân loại. Rivaldo, chiếc chân trái của thầy phù thủy, những bước chạy mê hồn. Chân anh vòng kiềng, nhưng trái bóng vào chân anh như có ma thuật, làm ngất ngây bao trái tim cule, Những ngày tươi đẹp ở Barca cùng với- những người Hà Lan bay-Patrick Kluivert, anh em nhà De Boer, LUIS Enricque đã đưa anh đến với những đỉnh cao của bóng đá thế giới. Đó là những chiếc cúp vô địch Laliga,cúp nhà vua TBN, danh hiệu quả bóng vàng châu Âu 1999, vô địch WC2002. Chỉ còn thiếu chiếc cúp C1 danh giá. Nói đến đây sao khóe mắt mình hơi cay. Một nỗi buồn xâu xé trái tim tôi. Cái mốc 100năm lịch sử của Barca bắt đầu những ngày tháng đen tối. Ngày đó Luis VanGan đưa Barca kỉ niệm 100 năm thành lập với chiếc cúp vô địch Laliga. Nhưng đối với ông trùm của Barca đó là ko đủ. Cũng như Morinho của Chelsea, VanGan đã phải ra đi. Dường như đó là điềm báo cho những người Catalan, đám mây đen sẽ phủ kín thánh địa NouCam và ru ngủ trái tim của những người hâm mộ. Mong chờ, mong chờ một cuộc hồi sinh, một cuộc hồi sinh sao mà kéo dài quá.
Ngày Rivaldo ra đi, trái tim tôi tan nát. Ai sẽ thay thế anh dân dắt người khổng lồ qua khỏi cơn khủng hoảng. Một vị thế ở TBN đã mất, đấu trường châu Âu các đối thủ ko còn quá e dè Barca nữa, CLB giàu nhất thế giới cũng ko còn.
Rivaldo,Rivaldo.Cái tên thân thương này ko còn được hét lên mỗi khi xem Barca thi đấu nữa. Anh chuyển đến Milan, trái tim tôi vẫn mãi yêu mến anh. Nhưng đau xót xiết bao, sau hai năm ở Milan anh đã phải thốt lên:
“Hai năm ở Milan đã giết chết giấc mơ tôi”
Anh đã thốt lên điều cay đắng ấy ngày anh rời Rossenorri. Ngày anh tới là nụ cười. Ngày anh đi là nước mắt. Ngày anh tới là người hùng của World Cup. Ngày anh đi là người thừa của thành Milan.
Rivaldo, bi kịch đến với anh từ ngày hôm ấy
Một huyền thoại nữa của bong đá thế giới lại đã ra đi. Anh ko còn được chơi bong đỉnh cao nữa rồi. Rivaldo, anh biết chăng, trong trái tim những cule, những người yêu anh vẫn dõi theo những bước anh đi, Vẫn buồn cho anh, vẫn cay đắng cho anh.
Anh sang Olympiakos, anh tỏa sáng trong màu áo ấy, nhưng anh như cánh én nhỏ không làm nên mùa xuân. Anh không thể nâng đỡ một Olympiakos tầm thường lên bến bờ chiến thắng như anh đã nâng đỡ Barcelona vào những thập niên 90 thế kỷ trước. Và tôi nhớ đến một chương trong cuốn tự truyện của anh : thế giới anh hùng của những kẻ khốn khổ. Ngày anh ở Barcelona, anh là người hùng. Nhưng trong trái tim và cuộc sống của anh là một kẻ khốn khổ. Giờ đây, anh đích thực là một kẻ khốn khổ. Cái chân trái ấy, cú lật bàn đèn ấy, những pha đi bóng ấy có sa sút đâu. Vậy mà anh bỗng chốc bị lãng quên giữa bản đồ bóng đá thế giới.
Chỉ còn những fan hâm mộ anh một thời là nhớ anh mà thôi
Bán kết cup C1 năm ngoái, chứng kiến trận đấu giữa MU và Barca. Nỗi nhớ anh trở nên da diết, nhớ cú lật bàn đèn, cú sút phạt của anh. Càng nhớ anh bao nhiêu, càng thấy những C.Ronaldo, những Henry so với anh mới mờ nhạt làm sao. Nhìn những bước chạy khắc khổ của anh trong 2 trận đấu với MU năm đó, những cố gắng tột cùng, những bàn thắng thăng hoa trong nỗ lực, nhìn cả ánh mắt tuyệt vọng của anh nữa, dường như tôi đã khóc. Một trong số rất ít lần trong đời tôi biết khóc. Khi viết những dòng này, tôi dường như có lại được những cảm giác năm ấy. Lại có một cảm giác bồi hồi về anh, Rivaldo! Ngày ấy, anh đẹp sáng rực, đẹp lắm…
Rivaldo, hành trình của một tinh hoa huyền thoại, đẹp như một ngôi sao trên bầu trời, cháy rực trong hành trình của một lưu tinh, và vụt tắt mãi mãi. Rivaldo, đó là anh ư?
Rivaldo giờ nhận mưc lương của một triệu phú, trong màu áo một CLB nhà giàu mới nổi của Uzebekixtan. Anh ở đó, no đủ trong vật chất nhưng chắc buồn lắm. Và tôi ước gì một ngày được thấy anh một lần nữa.
Dù tôi biết rằng, đó sẽ mãi mãi là điều không thể.
Rivaldo, đó phải chăng là kết thúc cho anh, kết thúc hành trình của một tinh hoa huyền thoại. Cháy sáng mãnh liệt mà vụt tắt trong lặng lẽ
Savicevic sinh ngày 15-09-1966 tại Podgorica, Liên bang Nam Tư (cũ), nay thuộc Serbia & Montenegro. Năng khiếu bóng đá của Savicevic bộc lộ rất sớm và ngay lập tức cậu bé lọt vào mắt xanh của những nhà săn lùng tài năng trẻ trên khắp đất nước. Sự nghiệp cầu thủ của Savicevic bắt đầu từ rất sớm khi ông mới bước sang tuổi 15 trong màu áo của đội trẻ OFK Titograd. Chỉ một năm sau, Savicevic được lên chơi ở giải hạng nhất Nam Tư trong màu áo CLB Budicnost Titograd.
Sau 6 năm khoác áo Budicnost và thể hiện một phong độ tuyệt vời, BLĐ của CLB Sao Đỏ Belgrade, CLB danh giá nhất liên bang Nam Tư ngày ấy, để ý và quyết định đưa bằng được ông về. Cũng trong năm đó, lần đầu tiên Savicevic được gọi vào ĐTQG trong trận dâu với Thổ Nhĩ Kỳ. Những ngày tại Sao Đỏ Belgrade là khoảng thời gian đẹp nhất trong sự nghiệp cầu thủ của Savicevic trên quê hương. Ông giúp Sao Đỏ Belgrade 3 lần liên tiếp VĐ Nam Tư (vào các năm 1990, 1991, 1992), 2 Cúp quốc gia (1990, 1992) cùng với chiếc Cúp C1 đầu tiên trong lịch sử CLB và Cúp Liên lục địa năm 1991.
Sau khi vượt qua nhà vô địch nước Pháp bằng loạt sút luân lưu trong trận chung kết, Sao Đỏ kế vị ngôi vua của Milan trên đấu trường châu Âu và Savicevic bắt đầu được các CLB lớn của châu Âu chú ý. Cuối cùng Berlusconi sau thời gian dài theo đuổi đã có được chữ ký của ông. Mùa Hè năm 1992, Savicevic chính thức được đưa về Milanello. Tại đây, Savicevic gặp lại những người đồng đội từng là đối thủ của ông tại Cúp C1 mùa giải 1989/1990, những người đã giúp Milan vượt qua Sao Đỏ Belgrade trong loạt sút luân lưu đầy may rủi.
Mùa bóng đầu tiên ở Savicevic không hề dễ dàng như ông nghĩ. Savicevic liên tục phải ngồi dự bị và ông chỉ được ra sân 10 lần trong mùa giải 1992/1993, tuy nhiên ông cũng kịp ghi 4 bàn thắng trong những lần hiếm hoi được ra sân, một con số không tồi của một tiền vệ. Mùa bóng đó, Milan vượt qua Porto để vào chung kết Champions League gặp Marseille (tuy nhiên, đó là trận chung kết mà tất cả các Rossoneri đều muốn quên).
Tuy nhiên, mùa bóng sau đó thực sự ngọt ngào với cả Milan lẫn Savicevic. Milan lần thứ 3 liên tiếp đoạt Scudetto, điều chưa từng xảy ra trong lịch sử CLB. Và mùa giải đó, Savicevic đưa Milan một lần nữa lọt vào trận chung kết Champions League gặp Barca của HLV Johan Cruyff. Trận chung kết Barca được đánh giá mạnh hơn nhưng Milan đã dạy cho những người TBN một bài học về bóng đá tấn công. Savicevic thực sự làm ngất ngây tất cả những người chứng kiến trận đấu bằng một phong độ chói sáng. Ông là người tạo cơ hội cho Massaro ghi bàn mở tỉ số bằng một pha đi bóng như chỗ không người bên cánh phải. Sau đó ông tự mình ghi bàn thắng thứ 3 trong chiến thắng 4-0 của Milan. Đó là một bàn thắng tuyệt vời từ khoảng cách khoảng 32 mét với một góc sút hẹp, vừa thể hiện sự tinh tế cũng như khả năng quan sát của ông. Đến ngay cả Cruyff cũng không khỏi thán phục bàn thắng này cho dù nó dập tắt mọi hy vọng của Barca. Một năm sau, Milan lần thứ 3 liên tiếp lọt vào trận chung kết Champions League nhưng đành chịu thất thủ trước Ajax Amsterdam.
Mối quan hệ giữa Capello và Savicevic không thực sự tốt và có phần gượng ép. Trong suốt sự nghiệp của mình, Capello không ưa những cầu thủ có lối chơi bay bướm, nhưng Savicevic là một ngoại lệ, dù không thích nhưng Capello vẫn phải chịu đựng vì có sự can thiệp của Berlusconi, người rất thích Savicevic. Tuy nhiên, mỗi khi có dịp là Capello sẵn sàng đẩy ông lên ghế dự bị.
Sau 2 mùa bóng liên tiếp thất bại cùng Milan, Savicevic trở lại Sao Đỏ Belgrade mùa giải 1998/1999. Một lần nữa ông đưa đội bóng này đến với chức vô địch quốc gia trước khi giã từ sân cỏ. Không còn nghi ngờ gì nữa, ông là một trong những cầu thủ hay nhất lịch sử bóng đá thế giới.
Sau khi kết thúc sự nghiệp cầu thủ với những thành công rực rỡ, Savicevic chuyển sang làm HLV. Tuy nhiên con đường huấn luyện của ông rất ngắn. Sau khi không thành công trên cương vị HLV trưởng của Serbia & Montenegro, Savicevic quyết định từ chức.
Cách đây vài tháng, Savicevic đã bị một tai nạn ô tô khi ông đang trên đường về nhà. Tuy nhiên mọi chuyện không quá nghiêm trọng và ông đã hoàn toàn bình phục sau thời gian ngắn điều trị.
Hiện nay, Savicevic trở về sống ở quê nhà và ông trở thành phó chủ tịch LĐBĐ Serbia & Montenegro. Sau những ngày tháng chiến tranh, giờ đây Serbia & Montenegro đang sống trong hoà bình. ĐTQG của của đất nước ông đã lọt vào VCK World Cup 2006 và đó là ước mơ cháy bỏng của Savicevic, sau những lần ông và đội tuyển Nam Tư (cũ) lỗi hẹn với ngày hội bóng đá lớn nhất hành tinh do chiến tranh và những cuộc nội chiến kéo dài. Chúc ông thành công trên cương vị mới
Chẳng mấy ai nhớ đến cái tên thật Arthur Antunes Coimbra của ngôi sao đó. Đơn giản là vì ông nổi tiếng hơn với tên gọi ngắn gọn Zico và biệt danh "Pele trắng". Với Pele, Zico là cầu thủ xuất sắc nhất kể từ sau khi ông treo giày: "Qua nhiều năm, chỉ có một cầu thủ tiến sát tôi là Zico".
Zico là con út của một gia đình trung lưu có tới 5 người con trai chơi bóng ở Quintino, ngoại ô Rio de Janeiro. Giống như nhiều cầu thủ Brazil khác, anh dành phần lớn ước mơ tuổi trẻ là chơi bóng đá chuyên nghiệp. Trong tuổi thơ của mình, quan hệ của Zico với quả bóng cũng rất xúc động như nhiều đứa trẻ mê bóng đá. Zico thường ngủ với quả bóng đặt cạnh gối, đối xử với nó rất âu yếm. Có khi đó cũng chẳng phải là một quả bóng đúng nghĩa mà được làm từ những chiếc tất lồng vào nhau. Nhưng có một điều chắc chắn là tâm trí của Zico luôn hướng về nó. Và như để đền đáp tình yêu đó, quả bóng không bao giờ phản lại anh. Nó luôn dính vào chân Zico và tuân theo mong muốn của anh trên đường bay tới khung thành.
Năm 1971, Zico chơi cho đội 1 lần đầu tiên và đã ghi bàn trong trận hòa 1-1 với Bahia ở SVĐ Fonte Nova. Tuy nhiên, để có cơ hội dự Olympic năm sau đó, ông đã chấp nhận ở lại đội trẻ. Thế nhưng rồi Zico vẫn không được gọi vào đội tuyển dự Olympic 1972. Thất vọng sâu sắc, Zico thậm chí đã nghĩ tới chuyện chia tay bóng đá. Nhưng chính sự động viên và ủng hộ của gia đình đã giúp ông quyết định tiếp tục con đường đã chọn. Ngay cả khi chưa hết buồn chán, Zico vẫn kịp chinh phục ngôi VĐ bang Rio cho Flamengo năm đó, cả ở cấp độ đội trẻ và đội chuyên nghiệp.
Năm 1974, Zico chơi mùa bóng đầu tiên với tư cách một cầu thủ chính thức thường xuyên và cuối cùng đã giành ngôi vô địch bang Rio. Anh thực sự trở thành số 10 mới của đội bóng Rubro-Negros (đỏ tươi-đen, màu áo truyền thống), cho cả thế giới thấy tài năng to lớn của anh, một tài năng thực sự ở đẳng cấp cao nhất. Trên sân cỏ, Zico ghi những bàn thắng theo đủ mọi cách mà chúng ta có thể tưởng tượng được. Ông còn là người chuyền những đường bóng quyết định, một nhà tổ chức và còn nổi tiếng về khả năng đọc trận đấu. Ngoài ra, đó là một siêu cầu thủ chơi tốt cả hai chân và chuyên gia đá phạt. Flamengo được hưởng tất cả những thứ đó khi Zico ở vào thời kỳ đỉnh cao phong độ.
Chẳng có gì phải nghi ngờ rằng Maracana là thánh địa của Zico. Ở đó, ông đã ghi những bàn thắng tuyệt vời và cũng phá một số kỷ lục của SVĐ này. Cũng với chiếc áo số 10 một thời thuộc về Dida, Zico đã vượt qua thành tích của thần tượng. Ông ghi được tới 333 bàn cho Flamengo ở “Ngôi đền bóng đá” này, kỷ lục mà chưa cầu thủ nào phá được. Zico cũng ghi 6 bàn trong một trận đấu gặp Goytacaz tại giải VĐ bang Rio năm 1979 (thắng 7-1), bằng với thành tích của người từng một thời khơi lên khát vọng cầu thủ trong anh.
Các fan Flamengo không phải mất nhiều thời gian để công nhận Zico là một ngôi sao nhưng sự sùng bái thần tượng đó đã thực sự trở thành bất tử khi thế hệ vàng của đội chinh phục cả Nam Mỹ và thế giới. Zico là thủ lĩnh đội bóng Flamengo huyền thoại những năm 1980 được tạo nên bởi những cầu thủ tuyệt vời như Raul, Junior, Rondinelli, Lico, Tita, Andrade, Adilio,... Họ đã giành hết danh hiệu này tới danh hiệu khác. Vinh quang bất tận khởi đầu với bàn thắng của Rondinelli tại trận CK giải VĐ bang 1978. Sau đó, đội bóng đã lần lượt chinh phục các danh hiệu VĐQG lần đầu tiên của họ (1980), Cúp Libertadores (1981), Cúp Liên lục địa (1981). Tiếp đó là hai chức VĐQG nữa (1982-83).
Năm 1979, Zico bắt đầu nổi tiếng khắp thế giới khi tham gia trận đấu biểu diễn trong thành phần đội tuyển thế giới của FIFA. Ngay sau đó, một chuyến đi của Flamengo tới Italia đã khiến Zico được ban lãnh đạo Udinese Calcio. Nhưng cũng phải chờ tới năm 1983 và khá nhiều kỳ công, họ mới mang được Zico về với bản hợp đồng chuyển nhượng thời hạn 2 năm trị giá 4 triệu USD.
Tại Italia, Zico có cơ hội đụng đầu với những siêu sao khác như Michel Platini của Juventus và Diego Maradona của Napoli. Ở mùa giải VĐ Italia 1983-84, Zico ghi 19 bàn, chỉ ít hơn chân sút số một Platini đúng một bàn dù phải chơi ít hơn danh thủ Pháp này tới 6 trận. Nỗ lực nối tiếp nỗ lực. 56 bàn trong 79 trận của Zico là những đóng góp cụ thể nhất mà người Italia không thể quên. Nhưng xét cho cùng thì siêu sao Brazil này vẫn không thành công ở Udinese bởi không giành được một danh hiệu nào. CLB này quá yếu, quá nhỏ và mình ông không đủ để đưa họ tới bến vinh quang.
World Cup đầu tiên của Zico chìm lấp trong cảm giác bị hành hạ bởi chấn thương giãn cơ chưa lành và không hài lòng về đấu pháp thiên về phòng ngự của HLV Claudio Coutinho. Nhưng nhiều người hâm mộ đội bóng vàng-xanh tin rằng dù có cố gắng thế nào đi nữa, Brazil cũng sẽ chẳng thể vượt qua được Argentina trên đất của họ khi mà sức mạnh của đội chủ nhà còn được bồi đắp bởi sự hỗ trợ của các nhân tố ngoài chuyên môn.
Mặc dù Zico từng có World Cup đầu tiên không ấn tượng ở Argentina năm 1978, những màn trình diễn trong màu áo CLB trước Espana 82 đã khiến người hâm mộ khắp thế giới mong chờ rất nhiều ở ông khi tới TBN. Zico vào World Cup này với tư cách một trong những cầu thủ xuất sắc nhất thế giới và được ngưỡng mộ nhất. Tới TBN năm đó, Brazil trở lại với sở trường của họ là phong cách tấn công đẹp mắt quen thuộc vốn rất phù hợp với khả năng tăng tốc, những pha xử lý kỹ thuật và những cú sút bất ngờ của Zico. Họ vào giải với vị thế ứng viên sáng giá nhất cho ngôi VĐ bởi sở hữu nhiều cầu thủ hàng đầu thế giới như Zico, Falcao, Socrates,... Nhưng việc đội hình mạnh nhất kể từ năm 1970 lại thiếu một trung phong tương xứng - Careca chấn thương còn Serginho không xuất sắc như các đồng đội tuyến dưới - khiến họ phải trả giá rất lớn.
Những người Argentina đã bị “trượt chân” trước đối thủ Italia nhiều tiểu xảo hơn và sau đó chính thức bị loại khỏi giải bởi Brazil trong một trận thua 1-3 đầy bạo lực mà chính thiên tài Maradona đã bị nhận thẻ đỏ vì nổi cáu đạp Batista. Thế nhưng rồi tới lượt Zico và các đồng đội, ứng viên sáng giá nhất của ngôi vô địch, cũng chung số phận như Argentina. Trong một trận đấu kinh điển của lịch sử World Cup, Brazil bị một đội Italia tỉnh táo và không ngại “chơi bẩn” đánh bại còn thủ lĩnh Zico bị Claudio Gentile phạm lỗi không thương tiếc trong sự nương tay của trọng tài. Tuy nhiên, cũng phải thấy đất nước của những kiệt tác kiến trúc và hội họa đã có được Paolo Rossi thăng hoa rất đúng lúc. Hat-trick của tiền đạo này đã che khuất những bàn thắng tuyệt vời của Socrates và Falcao khi mà tiền đạo Serginho lại vô duyên trong tận dụng những cơ hội bằng vàng.
Ở trận đấu cuối cùng trong sự nghiệp thi đấu quốc tế, ông đã bỏ lỡ quả penalty quyết định trong thời gian thi đấu chính thức ở trận tứ kết gặp Pháp của Platini. Định mệnh trớ trêu cho Brazil được hưởng quả penalty đó ngay sau khi HLV Tele Santana cho Zico vào sân. Một quả đá kỹ thuật nhưng bàn thắng thì không có. Trận đấu kết thúc với kết quả hòa dẫn tới việc phải phân định thắng thua ở loạt luân lưu 11m. Zico sau đó đã thực hiện thành công quả đá của mình nhưng các đồng đội Socrates, Julio Cesar lại đá hỏng và Brazil bị loại. Một kết thúc buồn cho một trong những cầu thủ nổi tiếng nhất Brazil trong lịch sử. Zico chia tay ĐTQG sau giải đấu ở cột mốc 72 trận và 52 bàn, thành tích ghi bàn xuất sắc thứ ba sau Pele và Romario.
Ai cũng có Kỷ niệm, và ai cũng có Nỗi đau ...
1. Pierluigi Collina, siêu trọng tài đầu tiên và duy nhất tới nay
Collina là ngoại lệ duy nhất trên thế giới về một trọng tài. Trừ ông, tất cả những “vua áo đen” trên sân cỏ chỉ được những lời khen chiếu lệ cho một trận bắt tốt và bị chỉ trích nặng nề nếu bắt dở. Tóm lại, họ luôn là nơi để CĐV trút sự giận dữ có cớ và cả vô cớ.
Đôi mắt rất sáng, nụ cười dễ chịu và cái đầu không một chút tóc nào của ông được coi như một phần của thương hiệu Collina. Ông cũng như Beckham, có thể sống tốt và bỏ túi bạc triệu dù ít dính đến bóng đá nữa. Có nhiều cầu thủ kiếm tiền nhiều và nổi tiếng tương tự Beckham, nhưng trọng tài tới nay thì chỉ có một, đó là Collina.
2. Paolo Maldini, nhà thơ của hàng phòng ngự
Facchetti đem sự lịch lãm, thông minh và rắn rỏi đến hàng phòng ngự. Gentille đã chỉ cho những người hâm mộ thấy, phòng thủ kiểu Italy là phải kèm chặt và “khủng bố” tinh thần của đối phương như thế nào. Baresi biến phòng thủ thành một dạng khoa học của tính chính xác trong thứ bóng đá phòng ngự khu vực. Còn Maldini là người đã giúp tất cả nhìn về cách phòng ngự Italy bằng một cái nhìn khác, tích cực hơn, đẹp hơn và nhiều chất thơ hơn.
Maradona từng nói về anh: “Hình như Maldini đi nhầm chỗ thì phải. Chỗ của anh ấy phải là trên sàn diễn thời trang”. Người hậu vệ lịch lãm và đẹp trai ấy đã biến phòng ngự thành một thứ nghệ thuật. Đó là nghệ thuật của sự phô diễn sức mạnh khi bám đuổi và cắt bóng ngay trong chân đối thủ, trong những tình huống nguy hiểm tưởng như không thể cứu vãn nổi với một sự chính xác ít thấy. Đó còn là nghệ thuật của khả năng lấy thăng bằng và thể hiện kỹ thuật, nghệ thuật của tài chỉ huy hàng thủ, nghệ thuật của việc đã luôn đứng vững trên sân cỏ trong suốt bao năm qua. Anh đã học những điều ấy từ người cha, Cesare (thậm chí anh còn giỏi hơn cha anh) và là một sản phẩm hoàn hảo của trường phái phòng ngự siêu việt Italy.
Người đàn ông này là người giữ tất cả những kỷ lục về số trận đấu cho ĐTQG, cho CLB, cho các trận đấu ở Cúp châu Âu, các trận derby, là một tầm gương lớn về sự bền bỉ, là lịch sử hiện đại của Milan, với biết bao thăng trầm trong hơn 20 năm qua, là một hình tượng mẫu mực về sự trung thuỷ. Anh chính là Milan và Milan, dù đã chuẩn bị rất kỹ cho những năm tháng không có anh, vẫn rùng mình khi đến một ngày, anh không còn ở đó nữa, trên thảm cỏ xanh.
3. Zinedine Zidane, biểu tượng thể thao, xã hội và chủng tộc
Cách đây chưa lâu anh vẫn giữ kỷ lục cầu thủ đắt giá nhất thế giới, là “vì tinh tú” sáng nhất trên bầu trời Real Madrid những năm qua. Kể cả khi anh đã giải nghệ sau World Cup 2006, người ta vẫn yêu anh, nhắc đến anh, nhớ đến cái đầu hói và những pha biểu diễn kỹ thuật đẹp đẽ của anh. Con người này là sự tổng hòa của rất nhiều yếu tố trong một nước Pháp: anh được một tờ báo của giới trung lưu Pháp bầu là người Pháp nổi tiếng nhất; năm 1998, với thắng lợi ở World Cup, anh được coi là biểu tượng của sự hoà hợp sắc tộc trên đất Pháp, vốn từ lâu đã có quá nhiều mâu thuẫn. Anh là người gốc Algeria, lớn lên ở Marseille, và là thủ lĩnh của một “Les Bleus” có công thức da trắng -da đen – Bắc Phi.
Nhà nghiên cứu xã hội Pháp, Pascal Boniface gọi hiện tượng thành công của Zidane là “sự khởi đầu của một thời đại ánh sáng mới”. Điều đó đúng. Chỉ có điều, Zidane đã kết thúc sự nghiệp trong một bi kịch cho chính anh, một cú húc đầu vào ngực Materazzi trong trận chung kết World Cup 2006. Cú “phốt” này không chỉ đóng lại những năm tháng đẹp đẽ của anh trong bê bối, mà còn góp phần khiến Pháp không thể với tới một chức VĐTG tiếp theo.
4. Roberto Baggio, người giúp tifosi không ghét bỏ bóng đá Italy
Truyền thống bóng đá Italy luôn sản sinh ra những hậu vệ lớn – những “công nhân” thực sự trên thảm cỏ, mà nhiệm vụ duy nhất là không cho một ai, kể cả chính họ, ghi bàn. Trong hàng chục năm, những gì mà người ta nói về bóng đá Italy chỉ là kết quả và đó là mục đích tối thượng của nó. Nhưng tại sao nền bóng đá khô khan và thực dụng ấy lại có thể sinh ra một ngôi sao như Roberto Baggio, người luôn đem lại cho giới tifosi những niềm hạnh phúc vì những bàn thắng đẹp đến mê hồn của anh, đồng thời cũng là hiện thân cho những nỗi buồn thất bại (quả penalty hỏng ăn trong trận chung kết World Cup 1994)?
Giorgio Tosatti, cây bút gạo cội trong làng báo thể thao Italy, đã giải thích điều này: “Bản thân bóng đá Italy là cuộc sống, luôn ở hai thái cực trái ngược tồn tại trong một chính thể, là tốt và xấu xen kẽ, nhưng không bao giờ có sự kết hợp giữa tốt và xấu thành một cái gì đó, hoặc là rất tốt, hoặc là rất xấu. Thế nên, chẳng có gì ngạc nhiên khi Italy đã có những Facchetti, Maldini, Baresi, nhưng lại có Baggio, Zola, Mancini, Totti”.
Baggio đã có một sự nghiệp lẫy lừng, được tôn vinh và yêu mến ở khắp thế giới, nhưng bản thân anh không thấy hạnh phúc đến thế. Là tên tuổi lớn hiếm hoi từng chơi cho cả 3 đội bóng lớn nhất Italy (Juve, Milan, Inter), nhưng sau Juventus, anh không sống được ở một CLB lớn nào nữa, mà chỉ tỏa sáng ở những đội bóng nhỏ, như Bologna, Brescia. Không ai ở Italy quên được câu nói của Tabarez, HLV Milan, khi đẩy anh sang Bologna: “Trong bóng đá hiện đại làm gì có chỗ cho các nhà thơ”. Ấy vậy mà “nhà thơ” Baggio đã ghi 205 bàn ở Serie A. Cũng không ai không nhớ đến Baggio, dù anh với 56 trận cho đội tuyển Italy, thậm chí còn chơi ít hơn 4 trận so với người cùng họ với mình, Dino Baggio, một tiền vệ phòng ngự có lối chơi chặt chém và dũng cảm hơn là lãng mạn. Nền bóng đá nào cũng cần những Baggio, cần rất nhiều Dino và một số ít Roberto. Roberto Baggio gặp rất nhiều trắc trở chính bởi anh quá lãng mạn. Ông chủ Juve, Agnelli còn gọi anh là “con thỏ ướt át” (coniglio bagnato). Nhưng chính vì thế, các tifosi càng yêu anh, nhớ anh nhiều. Vì họ hiểu “cuộc sống luôn cần bánh mì để ăn cho no bụng, nhưng sẽ ngon hơn nhiều nếu phết thêm vào đó một lát mứt ngọt ngào…”
5. Franz Beckenbauer – Libero và hơn thế nữa
Trong cuốn sách để đời viết về những ngôi sao bóng đá sáng nhất châu Âu, có tựa đề The Pros, Wolstenholme mô tả vị Hoàng đế bóng đá là “một cái tên lớn với người Đức, cũng hệt như cái tên Bobby Charlton với người Anh”. Ông đã đúng một phần, bởi người Đức sẽ khẳng định Beckenbauer là một người còn hơn thế nữa. Ông là sự kết hợp của 70% của những gì Bobby Charlton đã làm được và 80% những chiến công của Bobby Moore – một tượng đài khác của bóng đá xứ sở sương mù.
Những người xem bóng đá ở thập niên 1970 ấy nhanh chóng nhận ra rằng Beckenbauer đã làm được hơn những gì mà một hậu vệ phải làm. Một cầu thủ chơi chủ yếu với nhiệm vụ phòng thủ đã biến thành một cầu thủ tự do, có thể di chuyển xuống phía dưới hàng thủ để bọc lót, hoặc chơi phía trên hàng thủ, hoặc chạy lên tận hàng tiền vệ để đóng vai trò là người tổ chức, và khi có điều kiện, tấn công như một tiền đạo biết ghi bàn. Người ta gọi những cầu thủ như thế là libero, và Beckenbauer đã là người đầu tiên nổi tiếng với vị trí này.
Trong 12 năm, từ 1965 đến 1977, bóng đá thế giới nhìn ông thán phục, không chỉ vì tài năng và đức khiêm tốn, mà còn ở cả sự đĩnh đạc, phong thái trên sân. Không có bóng, ông lo phòng thủ. Có bóng, ông tổ chức tấn công, chuyền bóng lên phía trên cho đồng đội hoặc ghi bàn. Khi Beckenbauer giải nghệ năm 1977, sau 103 trận với 14 bàn cho đội tuyển Tây Đức, nước Đức bàng hoàng nhận ra họ đã sống quá lâu dưới cái bóng của ông, cả đội tuyển xây dựng xung quanh ông. Và khi Beckenbauer ra đi, một khoảng trống dài như vô tận vì thiếu một ngôi sao lớn như ông diễn ra đến tận năm 1990, khi Đức vô địch World Cup 1990, với ngôi sao mới Matthaeus. Điều đặc biệt, chính Beckenbauer, với vai trò HLV, là kiến trúc sư của chiến thắng ấy.
6. Oleg Blokhin, “Nhà du hành vũ trụ không thể bay”
Nếu Blokhin được sinh ra chậm hơn chừng 10 năm, có lẽ, ông sẽ nổi tiếng như Stoichkov. Điều may mắn là ông đã trưởng thành và nổi tiếng nhờ thứ bóng đá cơ động và điền kinh tổng lực của người thầy vĩ đại Lobanovsky ở Dynamo Kiev. Và điều tồi tệ, là ông chỉ được phép ra thi đấu ở nước ngoài vào năm 1988, khi đã 36 tuổi, và chẳng còn gì để chứng tỏ cho thiên hạ ngoài biên giới Liên Xô thấy những điều thần kỳ, như khi ông đã làm cùng Dynamo Kiev ( đoạt Cúp C2 năm 1975). Những năm ấy, Blokhin, với khả năng ghi bàn khủng khiếp của mình (ghi hơn 200 bàn trong giải VĐ Liên Xô), với tốc độ nhanh như tên lửa (ông chạy 100 mét chỉ hết 11 giây, và so với kỷ lục Olympic 1970, ông chỉ chậm hơn có 1 giây), đã trở thành siêu sao đầu tiên của bóng đá Xô Viết.
Tạp chí bóng đá Đức Kicker năm 1974 từng gọi ông là “nhà du hành vũ trụ ở chân trời bóng đá”. Blokhin giải nghệ vào năm 45 tuổi. Vào đúng năm 1997 ấy, Stoichkov đang tỏa sáng và là một bản sao của Blokhin ngày nào, nhưng anh lại sinh ra đúng thời hơn Blokhin. “Con tàu vũ trụ” Blokhin đã không thể cất cao.
7. Diego Maradona, “Vua” của tất cả “các vị vua”
HLV huyền thoại Alf Ramsey, người đưa tuyển Anh lên ngôi VĐTG năm 1966, nhận xét: “Pele có hầu như tất cả. Maradona có tất cả”.
Quả thật, người ta có thể nói về Maradona cả ngày không chán. Xem anh đá bóng ở thời đỉnh cao không khác gì ngắm một bức tranh đẹp đẽ của Raffaello hay Botticelli – 2 danh họa kiệt xuất người Italy thời Phục hưng. Anh có tất cả: kỹ thuật, sự nhanh nhẹn, tư duy chiến thuật, khả năng gây đột biến trong tích tắc, tài thủ lĩnh, sự dũng cảm để làm nên những điều phi thường và cả những điều xấu xa nhất (bàn thắng bằng “bàn tay của Chúa” vào lưới Anh ở World Cup 1986). Maradona làm cho bóng đá trở nên đẹp đẽ, nhưng anh cũng làm cho nó xấu đi không ít. Anh xuất hiện những năm 1980, khi bóng đá trở nên thực dụng, xấu xí và khả năng kỹ thuật điêu luyện của anh đã làm nảy sinh một vấn đề quan trọng làm thay đổi bóng đá thế giới. Các hậu vệ luôn tìm cách chặt chém anh một cách thô bạo và thứ bóng đá xấu xí của chính đội Argentina mà Maradona khoác áo ở World Cup 1990, kỳ World Cup được cho là dở nhất trong lịch sử, khiến số bàn thắng trung bình của mỗi trận giảm xuống thấp nhất lịch sử. Đây là lý do khiến FIFA tiến hành một chiến dịch bảo vệ những ngôi sao như anh bằng cách thắt chặt luật lệ về phạm lỗi, một cuộc cải tổ cách mạnh trong lịch sử. Anh không được tận hưởng sự bảo vệ ấy, bởi tại World Cup 94 anh bị treo giò vì dùng doping. Chính anh cũng đã phải rời Italy năm 1991 vì lý do tương tự.
Vậy đấy, Maradona, người đưa Argentina đến chức VĐTG năm 1986, vào tới trận chung kết World Cup 1990, giúp đội bóng tí hon Napoli đoạt Scudetto 1987, 1990 cũng không chỉ là một ông vua trên sân cỏ. Anh là cuộc sống, là cái tốt, cái xấu, cao cả và đê hèn, vinh quang và tủi nhục… tất cả trong một con người.
8. George Best, “James Dean” của bóng đá
Trước khi Beckham khám phá ra rằng, bóng đá có thể là sân khấu để anh khoe khuôn mặt đẹp trai khiến cả giới nữ lẫn giới nam, thậm chí là dân “gay”, phát điên lên, có thể kiếm bộn tiền nhờ vẻ đẹp của cơ thể và trưng nó lên bìa báo cùng với những scandal hơn là thi đấu trên sân cỏ, Best đã biết đến điều ấy rồi. Thậm chí, cuộc sống của Best (đọc cũng na ná như Becks) trở nên tối tăm và mờ mịt vì sự nổi tiếng ấy. Nó đã giết chết ông.
Tài năng của Best nở rộ ở M.U (cũng như Becks). Những cú đi bóng nhanh như điện giật, những pha đột phá khiến tất cả kinh ngạc và khiến nhiều cầu thủ ở những đội bóng chống lại M.U phát bực. Trong một trận đấu với Southampton, một cầu thủ của đội này đã la lên với tiền đạo người Bắc Ireland của M.U: “Mày mà còn lặp lại động tác đi bóng ấy, tao sẽ giết mày”. Best nghe thấy thế chỉ cười. Năm 1968, ông trở thành nhân vật chính trong cuộc chinh phục thành công Cúp C1 đầu tiên của M.U. Tai hoạ của Best đến từ khuôn mặt điển trai và cả tài năng đã giúp ông được coi là thành viên thứ 5 của nhóm The Beatles. Ông đẹp trai, và có một cá tính nổi loạn như tài tử James Dean. Trong khi Dean chết vì tai nạn sau một lần phi xe bạt mạng, Best đã giã từ bóng đá năm 27 tuổi, không phải trên sân cỏ, mà ngoài đời vì ông bắt đầu nốc rượu và sống một cuộc đời phóng túng. 30 năm uống rượu đã giết chết ông. Maradona từng nói: “Tôi điên, nhưng Best còn điên hơn tôi”…
Đời đâu phải là mơ. Best biết vậy, nhưng bi kịch là ông không thể sống khác với chính mình. Có cả một cuốn phim về ông, mà trong đó diễn viên John Lynch đóng vai Best. Trong một cảnh đáng nhớ của bộ phim, trước quan tài của Sir Matt Busby, Best đã đứng lặng. Và một giọng nói cất lên: “Có một thời để sinh ra và chết đi, có một thời để yêu thương và đau khổ, có một thời để hát và nhảy múa, có một thời để hôn và để được hôn, có một thời để tìm kiếm và tìm thấy, có một thời gian để có tất cả và sau đó mất tất cả. Thời gian để sống và để chết”…
9. Alfredo Di Stefano tạo nên huyền thoại Real Madrid
Trước khi có Di Stefano, Real Madrid không phải là Real Madrid. Real mà không có Di Stefano cũng hệt như ban nhạc Queen chẳng còn gì khi mất Freddy Mercury, giải đua F1 không có Michael Schumacher hay Tiger Woods không có mặt ở một sân golf nào.
Di Stefano chính là Real, bởi dù SVĐ của họ có mang tên Santiago Bernabeu, tên của vị chủ tịch vĩ đại, thì Di Stefano mới là ngôi sao sáng nhất. Những chiến thắng lẫy lừng, những danh hiệu của Real và thời kỳ oàng kim của họ chỉ đến khi ông ký hợp đồng với Real năm 1953, ở tuổi 27. Hai năm sau, thời kỳ thống trị của Real bắt đầu. Từ 1955 dến 1960, tất cả các Cúp C1 đều nằm trong tay họ. HLV Helenio Herrera, một huyền thoại của bóng đá thế giới, nói về ông: “Di Stefano là cả một đội bóng. Anh ta là cái neo của hàng thủ, là cầu thủ dẫn dắt lối chơi, là chân sút số một”.
Nhưng ông còn là một thủ lĩnh đặc biệt, người tạo cảm hứng cho tất cả, người tôn thờ thứ bóng đá bằng máu và mồ hôi. Trong cuốn sách nổi tiếng của nhà báo Phil Ball có tựa đề “Real trắng”, có cả một chương mang tên Cuộc sống trước Di Stefano để nói về ông và CLB Hoàng gia Tây Ban Nha. Trước Di Stefano, Real chỉ có 2 chức VĐ Liga, kể từ khi gắn bó với ông, thêm 29 danh hiệu nữa! Ở trận đấu đầu tiên của Real ở Cúp châu Âu, với Servette, năm 1955, người sau này là Vua Tây Ban Nha, Juan Carlos, lúc đó mới 17 tuổi và là thái tử, đã vào tận phòng thay quần áo của Real để bắt tay từng người. Vị vua tương lai của Tây Ban Nha đứng lại một lúc lâu trước Di Stefano và nói: “Bây giờ, chàng trai này mới là vua”. Ông không hề sai.
10. Eric Cantona, “Gã điên” làm bừng sáng giải Ngoại hạng
Thật khó để tưởng tượng ra giải Ngoại hạng Anh sẽ còn nhàm chán và buồn thảm đến bao giờ, nếu Cantona không đổ bộ lên đất Anh hồi tháng 2/1992. Nó sẽ không có tâm hồn, không có kỹ thuật (lối chơi “kick & rush” ngự trị) và không mang một chút cá tính nào. Trước đây, án kỷ luật của UEFA với bóng đá Anh sau vụ Heysel năm 1985 đã giết chết một phần bóng đá của quốc gia này. Khi Cantona đến Anh, chàng thanh niên 26 tuổi vốn mang tiếng là một “gã điên” khó tính và hay gây gổ, đã có một quá khứ không đến nỗi tồi với đội tuyển Pháp (20 bàn trong 45 trận), không hề được đánh giá cao và thậm chí còn được cho là sẽ thất bại thảm hại như nhiều cầu thủ khác. Nhưng ngay năm ấy, anh đã đưa Leeds đến chức vô địch nước Anh bằng sự thông minh và phong cách chơi bóng đầy chất nghệ sĩ.
Vì Elland Road không bao giờ là “Nhà hát của những giấc mơ”, nên anh đến đó, Old Trafford, và Alex Ferguson cảm ơn Chúa vì đã cho ông thứ vũ khí sắc sảo nhất để ông cùng MU trở lại thống trị bóng đá Anh sau bao năm trắng tay và núp bóng Liverpool. Ông tìm thấy ở anh, và sau này là Roy Keane, tư chất của một thủ lĩnh tối cao, người đưa đội bóng đến chiến thắng, người truyền cảm hứng cho đồng đội. Với những phẩm chất đó, Cantona đã đưa MU đến những chiến thắng, kèm thêm cả những phiền toái do những án kỷ luật mà anh đã hứng chịu như một phần của cá tính mạnh mẽ ấy (cú kungfu vào một CĐV Crystal Palace năm 1995 là một ví dụ). Sự xuất sắc ấy đã không chỉ đưa MU thành lá cờ đầu của giải Ngoại hạng, mà còn được coi là biểu tượng thành công mang tính toàn cầu của giải đấu. Đó là nhờ Cantona, cầu thủ hay nhất trong lịch sử của giải đấu này, tính tới nay.
11. Johan Cruyff, “người Hà Lan bay”
Cruyff mới chỉ 8 tuổi khi trận đấu bóng đá nhà nghề đầu tiên diễn ra trên đất nước Hà Lan vào ngày 13/3/1955. Vậy mà chỉ trong 20 năm, Ajax đã 3 lần liên tiếp đoạt Cúp C1 trong những năm 70 và đội tuyển Hà Lan đã 2 lần vào đến tận trận chung kết của 2 World Cup liên tiếp 1974 và 1978. Thành tựu lớn ấy sẽ không bao giờ được tạo nên nếu không có khối óc của HLV huyền thoại Rinus Michels và đôi chân cùng cái đầu của Johan Cruyff. 2 con người ấy đã thổi một luồng gió tươi mát vào bóng đá thế giới những năm 1970 với bóng tấn công tổng lực.
Dù với tư cách nào, cầu thủ hay HLV, Cruyff cũng luôn để lại những ấn tượng mạnh mẽ. Và những bài phỏng vấn nào về ông cũng luôn cho thấy, ông không chỉ giỏi trên sân, mà còn là một nhà tư tưởng vĩ đại của bóng đá tấn công. Người Hà Lan gọi ông là John Lennon của họ. Thế giới gọi ông và thế hệ ông là “người Hà Lan bay”. Bất cứ nơi nào ông đã đi qua, từ Ajax, Barca đến đội tuyển Hà Lan đều kính trọng ông và chịu ảnh hưởng lớn của ông, đặc biệt là Barca, bởi chính ông,cùng Michels và Neeskens là những người đã kết duyên cho xứ Catalan với những người Hà Lan trong suốt 30 năm qua, một mối tình chưa hề có dấu hiệu nguội lạnh. Chính Cruyff và cá tính của ông đã ảnh hưởng lớn đến những đội bóng mà ông thi đấu và dẫn dắt.
Sự thật, là trong trận đầu tiên của sự nghiệp ở tuổi 19, ông đã ghi 1 bàn thắng và sau đó bị đuổi khỏi sân vì…đấm trọng tài. Cruyff là thế đấy, bộc trực, sắc sảo và thông minh. Như thứ bóng đá của chính ông.
12.Raymond Kopa, người mở đầu cuộc cách mạng trong xã hội bóng đá
Một cầu thủ xuất sắc của bóng đá Pháp không thể được gọi là “Napoleon của bóng đá” trừ phi người đó, hoặc phải siêu giỏi hoặc phải chinh phục được những danh hiệu lớn nhất của bóng đá thế giới. Trước khi Platini và Zidane làm được điều đó, Kopa đã đứng trên đỉnh thế giới rồi. Người sinh ra trong một gia đình công nhân mỏ ấy đã chinh phục nước Pháp như Napoleon từng chinh phục, dù ông là người gốc Ba Lan (“tên tôi là Kopaszewski, và để thoát khỏi những mỏ than, tôi chẳng biết cách nào khác ngoài đá bóng”). Ông đổi tên, nhập quốc tịch Pháp và trong năm 1958, đưa Stade de Reims vào chung kết Cúp C1 (tiền thân của Champions League), đưa đội tuyển Pháp vào bán kết World Cup.
Ngày ông mới nổi tiếng, khi được hỏi cảm nghĩ, Kopa đã nói: “Nếu không có cái mỏ than ấy, tôi chỉ là một cầu thủ giỏi không hơn. Và để thoát ra khỏi cái mỏ than, tôi chỉ có một lựa chon duy nhất, bóng đá”. Vậy, đã bao giờ ông nghĩ, nếu không có ông, bóng đá Pháp sẽ ra sao?(ST)
Ai cũng có Kỷ niệm, và ai cũng có Nỗi đau ...
Đọc mấy dòng này lại nhớ đến ngày xưa.
Nhớ ngày xưa, những năm 1980 (mới gần chục tuổi) kiếm được 1 cuốn sách về bóng đá khó thế; lục cả giá sách mới được cuốn tổng hợp các WC. WC 1986 mới bắt đầu có tin nhanh, vừa ôn thi cấp 3 vừa ngấu nghiến từng tờ báo, rồi dập ghim và góp cùng bạn thành bộ để xem chung cho đỡ tốn tiền.
Khốn khổ vì cái nhà đài TH, vì ăn theo Anh cả CCCP (họ giúp cho cái đài vệ tinh mặt đất Hoa Sen - Ninh Bình) nên cứ cái ông CCCP thua là không được xem nữa. AKAY nhất là cái trận Braxin - CCCP (3-2), trận tuyệt hay mà cái ông nhà đài cứ bảo trọng tài thiên vị Braxin. Đội hình với bộ tứ Fancao - Ede - Zico - Socratec lừng lẫy thắng thuyết phục đội hình cũng cực mạnh của CCCP với bộ khung của Kiep vô định C2. Sau trận thua đó, ông nhà đài ko phát liền mấy trận. 2 năm sau vô tình được diện kiến 1 trong những cầu thủ nổi tiếng của CCCP trên sân vận động Hàng Đẫy trong khuôn khổ giải SKDA (giải bóng đá các CLB quân đội các nước XHCN). Đó là hậu vệ nổi tiếng: Khidiatulin. Xem anh thi đấu lúc ấy mới bắt đầu hiểu tại sao bóng đá Braxin lại mê hoặc đến vậy!
Thanks topic rất hay.
Ngày đó mỗi trận đấu được xem là một lần được chiêm ngưỡng và khám phá bí ẩn.
Đội bóng chân đất của xóm cũng lấy tên theo các danh thủ nổi tiếng, vui lắm. Nào là Zico, Socra, Joginho, Alemao ............. rồi vừa đá vừa hò hét suốt cả ngày.
Mỗi lần nhìn bạn bè sưu tầm được 1 poster màu in hình cầu thủ là mơ ước ngẩn ngơ mất cả tuần.
Sau này, năm 1986, khi xem xong trận Braxin - Pháp (Pháp thắng luân lưu, Platini hỏng bàn, Fenander đá quả quyết định) thì không rời bóng đá ra được nữa.
Dẫn đầu đội hình Vn đá giải SKDA ngày ấy là danh thủ Cao Cường, với người anh khắc khổ và nổi tiếng không kém Nguyễn Thế Anh. Trong khung thành hình như là Trần văn Khánh thì phải ?? Đó là lần đầu tiên được nhìn tận mắt các cầu thủ ngoại. Có Hunggari, Liên Xô, Angola, Bungari ..........
Last edited by Mưa Trên Cuộc Tình; 13-01-2010 at 12:49 PM.
Ai cũng có Kỷ niệm, và ai cũng có Nỗi đau ...