Bài 1 đến 10/34

Chủ đề: Tìm hiểu thế giới thi nhân.... (Nguyễn Bính-Thi sĩ giang hồ)

Threaded View

  1. #15
    Diamond Member PhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucket
    Ngày gia nhập
    May 2009
    Bài viết
    8.176
    Thanks
    301
    Thanked 3.169 Times in 588 Posts

    Default Ðề: Tìm hiểu thế giới thi nhân....

    Hai mươi năm ngày mất nhà thơ lớn Chế Lan Viên
    Vũ Quần Phương

    “Mười bẩy tuổi, khi còn ngồi trên ghế nhà trường trung học đã có tập thơ gây sửng sốt cho thi đàn, quả là một thần đồng, tám năm cuối đời lại có sức bút đủ làm thành một sự nghiệp riêng, không thua gì cả đời thơ đã trải, Chế Lan Viên là một tài năng thơ lực lưỡng nhất trong các nhà thơ hiện đại.” Nhưng Chế Lan Viên không chỉ lực lưỡng về sức viết, cái ông lớn ở tầm tư duy thời đại của dân tộc mới thật đáng kể. Có thể hình dung, trong biển thơ mênh mông nước Việt, một mình Chế Lan Viên làm một dòng hải lưu trào dâng cuồn cuộn lan toả. Kỳ lạ là Chế có những bước đi khác hẳn người đương thời: Khi bạn bè ông rên xiết bóng bẩy thì ông khiến người ta kinh hoàng; khi bạn bè ông véo von ngợi ca thì Chế trầm tư ngẫm ngợi, còn khi con em mình vẫn đang hoang mang trước những tung toé thì ông đã dường như ở hẳn cõi khác nhưng từ đó vọng về khúc bi ca bất tận của thân phận làm người. (VanVn.Net)

    Lượng thơ, gộp trong hai tập đầu của bộ Chế Lan Viên toàn tập (gồm 5 tập), chiếm ngót 1400 trang khổ 13,5 x 20,5, trong đó Di cảo mới công bố 3 tập (đã soạn xong tập thứ tư . Chế Lan Viên có thơ bốn câu và cũng có nhiều bài tới nghìn câu khổ rộng. Tập Những bài thơ đánh giặc (Thanh Niên 1972), 78 trang, mà mới chỉ ba bài. Khối lượng đồ sộ, bao gồm nhiều chặng cảm xúc và nhận thức cuộc sống. Đến nay, sau 17 năm ông xa khuất, đã có độ lùi năm tháng, thời cuộc cũng lắm đổi thay, lắm thử thách còn mất của văn chương, bài giới thiệu này muốn một cái nhìn bao quát cả đời thơ ông: đâu là chất thơ vĩnh cửu ngay trong những bài thơ thời sự, đâu là những khác biệt trên từng chặng trong một Chế Lan Viên thống nhất...

    Điêu tàn, 36 bài và sau Điêu tàn, 34 bài nữa, coi chung là những thi phẩm trước cách mạng của ông. Chủ đề Điêu tàn được nhiều người xác định là tiếng than khóc cho một đất nước đã tiêu vong. Đúng thể, nhưng chưa đủ. Bởi ngay trong đề tài Chàm này, mà đề tài Chàm mới chỉ chiếm một phần Điêu tàn, thì cảm hứng thơ Chế Lan Viên đâu chỉ khuôn trong nỗi buồn vong quốc của dân Chàm, đâu chỉ là nỗi nuối tíêc khung cảnh huy hoàng nước non Hời trong dĩ vãng. Ngoài Những cô thôn vàng nhuộm bóng chiều tươi với Những chiến thuyền nằm mơ trên sông lặng / Bầy voi thiêng trầm mặc dạo bên thành và Những Chiêm nữ nhẹ nhàng quay lại ấp / Áo hồng nâu phủ phất xoã lời vui... Còn gì nữa chứ. Còn, ấy là:

    Sọ dừa ơi hãy nghe ta truyền phán
    Hãy ngả nghiêng lăn lộn, hãy kêu gào
    Hãy rít lên những điệu xương vỡ rạn
    Hãy buông ra những tiếng máu sôi trào

    Còn:

    Rồi lấy ra một khớp xương rợn trắng
    Nút bao giòng huyết đẫm khí tanh hôi
    Tìm những “miếng trần gian” trong tuỷ cạn,

    Nhà thơ trẻ lãng mạn Chế Lan Viên muốn gì trong cõi yêu tinh kinh dị u uất ấy?

    Hãy về đây, về bên ta mi hỡi
    Đem cho ta những phút rỡn kinh hồn
    Những phút mộng điên cuồng, mơ dữ dội

    Ông muốn tìm giải thoát trong cõi yêu ma. Chán sắc màu thật của trần gian nên thích hồn phách say sưa trong giả dối(...) Cho lăn lóc hồn mê trong Ảo Huyễn. Tự tạo ra ảo huyễn. Nước Chàm xưa chỉ là một (trong nhiều) ảo huyễn được gợi nên từ bóng dáng đổ nát những tháp Chàm ngày đêm in bóng trên nền trời Bình Định, trên không gian tuổi thơ của tác giả. Đây là chỗ giao thoa của hồn thơ Chế Lan Viên và Hàn Mặc Tử. Hàn Mặc Tử ảo huyễn trong cõi điên, xáo trộn yêu ma với Thiên Chúa, với Thánh Thần. Chế Lan Viên tìm vào cõi âm, hồn thơ lảng vảng tìm thi hứng từ những tha ma, huyệt mộ, đầu lâu, xương tàn, máu, não ... Không gian là trăng mờ, bóng tối, đêm đen. Nhân vật là Các cô hồn lặng ngắm cõi hư vô. Đến tiếng mõ lốc cốc của trần gian, ông cũng thấy Tựa đầu lâu reo dưới khớp xương tàn Trong thơ cổ điến nhiều nhà thơ cũng đã nói tới cõi âm. Nguyễn Du trong Văn Chiêu hồn cũng đã phục hiện bóng dáng những cô hồn Lôi thôi bồng trẻ dắt già. Nhưng không dựng các chi tiết đặc tả xác chết, hồn ma ghê rợn, tiếng xương kêu, máu thét kinh hoàng. Mạch cảm xúc này cha ông ta ít khi khai thác, nó không có trong truyền thống. Phương Tây thì nhiều, rõ và gần nhất là Beaudelaire. Niềm kinh dị (chữ của Hoài Thanh) do Chế Lan Viên gây nên xuất phát từ đây. Nhưng, theo tôi, sức thu hút của Điêu tàn không chỉ ở kinh dị với ma khóc quỷ hờn, đầu lâu la hét...trong cõi âm mờ tối, mà nhiều hơn lại ở sự mê đắm. Mê đắm vẻ đẹp rất nhiều ánh sáng kỳ ảo của trần gian thanh thiên bạch nhật. Thiên nhiên tươi sáng, son trẻ, nghịch ngợm, đa tình.

    Cảnh xuân:

    Hàng dừa cao say xưa ôm bóng ngủ
    Vài quả xanh khảm bạc hớ hênh phô
    Xoan vươn cành khều mặt trời rực rỡ
    Bên bóng râm lơi lả nhẹ nhàng đu

    Cảnh thu:

    Mặt trời nở trong ô cây thếp bạc
    Trên ngàn xanh nhí nhảnh ánh vàng lay
    Muôn chim non cùng ngây thơ ca hát
    Lũ bướm vàng quên lạnh thẩn thơ bay

    Đây cũng là khí quyển quen thuộc của phong trào Thơ Mới. Trong tâm lý tiếp nhận cảnh sắc ấy có lòng yêu đời say đắm, say đắm mà thành lãng mạn mà tạo thần tiên cho cõi trần. Đây lại là chỗ giao thoa của Chế Lan Viên với Xuân Diệu và cả với Thế Lữ (Thế Lữ tạo thần tiên hơi quá tay nên có hao hụt thi vị trần tục). Hồn người thơ ở đây trong trẻo quá, cách xa lắm với khí đêm u uất cõi ma trong các bài thơ khóc dân Hời. Cảnh xuân: tả cây, tả quả, tả cành, tất cả đều nhân cách hoá, đây say sưa ôm bóng ngủ, kia hớ hênh phô, hoặc khều nghịch ngợm. Tinh, hóm, sống động. Nhưng thần tiên nhất là cái bóng râm, không sống chết, nhưng lại đa tình hơn cả, lơi lả nhẹ nhàng đu. Cảnh thu có cây, chim non, bướm vàng sinh động nhưng chưa kỳ ảo bằng cái ánh vàng, nó nhí nhảnh lay. Những nét ảo chấm phá điểm xuyết ấy làm cảnh thực lung linh hơn chính nó. Một chút như vô tình buột ra thế thôi nhưng đấy là dấu hiệu của tài năng, không dễ có. Giai đoạn sau Điêu tàn , bút pháp ảo trần gian trong trẻo này được vận dụng nhiều. Bài thơ Trưa đơn giản là thành công tiêu biểu cho khuynh hướng này. Những không gian trưa trưa quanh vườn, trưa quanh gốc, trưa lên trời, trưa lạc vào lăng tẩm, trưa bước xuống những sân ga... các trưa điển hình của hiện thực nhưng được thu nhận bằng cái nhìn ảo. Thực ảo lẫn vào nhau, tạo một cảm xúc chập chờn nửa vào cõi lạ nửa trong cõi đời. Câu thơ mê đi làm tỉnh thức rất nhiều cảm giác, ý thức thành mơ hồ, tài tình lắm:

    Trưa, theo tàu bước xuống những sân ga
    Dựng buồn lên xa gửi đến Muôn Xa
    Đây trưa hiện hình trong căn trường nhỏ
    Đưa tay thoa những hàng kính vỡ

    Đây là một chặng phát triển cảm xúc Chế Lan Viên sau giai đoạn kinh dị. Đôi lúc ông tạt qua bút pháp ấn tượng, tạo nét siêu thực chừng mực, đủ sức gợi. Ý nghĩa câu thơ lùi lại phía sau nhường cho cảm giác hình thành:

    Thâm khuê ý thức chong đèn lạnh
    Mặt nguyệt tâm tư tròn vẹn gương
    Chiếc én thành son chưa đẫy cánh
    Nét đau xanh liễu chửa buông tường

    Chế Lan Viên không phát triển bút pháp này. Hướng ấy là sở trường của Nguyễn Xuân Sanh, nhưng bài thơ Lại thấy thời gian này ( viết khoảng 1937-1946) là một bài thành công, cho thấy biên độ cảm hứng của Chế Lan Viên khá rộng.

    Cách mạng tháng tám thành công, đất nước bước vào chặng lịch sử mới, Chế Lan Viên cũng như hầu hết các nhà thơ lãng mạn của phong trào Thơ Mới cũng vào chặng sáng tác mới: tự nguyện biến thơ mình thành công cụ vận động đồng bào đánh giặc cứu nước. Nhà thơ lãng mạn nổi tiếng trở thành cây bút hiện thực dò tìm những bước đi đầu tiên. Nhiều trồi trụt và ấu trĩ. Nhưng hôm nay, sau hơn nửa thế kỷ với biết bao biến động của đường lối văn nghệ, đọc lại không thể không khâm phục ý chí vì đại nghĩa của lớp nhà thơ “tiền chiến” ấy. Tập thơ bao trùm giai đoạn sáng tác chín năm kháng chiến Gửi các anh là một tập thơ mỏng, ướm thử nhiều thủ pháp, cốt sao tải được hiện thực cuộc sống lẫn ý tưởng tác giả khi ấy. Khó có thể coi bài nào là hoàn chỉnh, nhưng lại hé cho thấy những khuynh hướng mới, sau này sẽ phát triển rõ trong Ánh sáng và Phù sa. Lối viết chính luận tung hoành trong các câu thơ rộng khổ ở các bài Cành phong lan bể, Tàu đến , Tàu đi đã được báo hiệu từ những thể nghiệm của bài Chào mừng ( viết năm 1950). Cũng như vậy, Đi ra ngoại ô thoát thai từ Trường Sơn. Và Kết nạp Đảng trên quê mẹ từ Đưa con ra trận. Điều đó chứng tỏ hướng tìm của Chế Lan Viên những năm kháng chiến chống Pháp là có ý nghĩa. Chúng ta hiểu thêm: ngay ở những nhà thơ tài năng, để chín trong một khuynh hướng sáng tác mới cần một lao động thơ bền bỉ hàng thập niên. So với thơ viết trước cách mạng, Gửi các anh ham ôm chứa hiện thực, đôi lúc thơ làm nhiệm vụ ký sự, đôi lúc thơ thuyết minh bình luận sự kiện quá đầy đủ và khô khan, nhưng có một bước phát triển bạn đọc cần ghi nhận là chính từ tập thơ này Chế Lan Viên bộc lộ khuynh hướng nâng cao phẩm chất trí tuệ cho thơ. Khuynh hướng này về sau thành một đặc sắc của Chế Lan Viên. Tư duy sắc sảo, huy động hình ảnh tạo nên những cặp phạm trù, những mạch nghĩ lôgic, đó là những công cụ mới thể hiện cảm hứng người viết và dẫn dụ cảm xúc người đọc. Hình ảnh khi tương phản: Việt Nam những ngày nguyên tử vẫn xông lên hàng đầu với gậy tầm vông, khi cộng hưởng, trùng điệp: Những thành phố lớn cưu mang trong lòng, những nhà máy lớn / Nhưng lớn lao thay là những người đã thắng được máy móc và để lại tên cho phố phường. Bản thân nó chưa thơ (suy tưởng lấn hình tượng) nhưng nó dẫn đến những nhận thức mới mẻ, bất ngờ.Đến thời Ánh sáng và phù sa, khi hình tượng thơ hoàn chỉnh, nó thành những câu thơ đúc kết chân lý:

    Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
    Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn

    Càng về sau hứng thú khi đọc thơ Chế Lan Viên càng thiên về hứng thú trí tuệ. Và từ trí tuệ mà nảy sinh tình cảm ở một chiều sâu mới. Bài thơ dựng lại con đường Hồ Chí Minh tìm đường cứu nước mang cái tên dài Người đi tìm hình của nước. Bản thân cái tên ấy là một câu thơ hàm súc. Hình tượng thơ nằm trong hình ảnh đi tìm hình của nước, nghĩa là tìm dạng thức tồn tại cho đất nước (Độc lập hay Liên hiệp? Cộng hoà hay Quân chủ?...). Cách nói ấy mang tính trí tuệ và trở thành tứ của bài thơ. Bài thơ kết thúc khi cái hình nướchiện ra, trong hòn đất Pac Bó được Bác Hồ nâng trên tay ngày trở về:

    Kìa bóng Bác đang hôn lên hòn đất

    Trong màu hồng hình đất nước phôi thai

    Ánh sáng và Phù sa xuất hiện năm 1960, trong mùa chín của các nhà thơ cách mạng đi từ phong trào Thơ Mới lãng mạn với các thi phẩm của Xuân Diệu (Riêng chung) Huy Cận (Trời mỗi ngày lại sáng) Tế Hanh (Gửi Miền Bắc) Lưu Trọng Lư (Toả sáng đôi bờ)...tạo một không khí sầm uất cho thơ, trong chừng mừng nào đã bộc lộ được mặt mạnh của khuynh hướng mở rộng cánh tay thơ ôm chứa lấy cuộc đời. Phẩm chất trữ tình mới và cả bút pháp thể hiện mới của Ánh sáng và Phù sa như một cú hích cho cả nền thơ Miền Bắc hồi ấy. Nhiều cây bút trẻ bị phong cách Chế Lan Viên thu hút. Từ đó cho đến khi mất, Chế Lan Viên đều đặn cho xuất bản Hoa ngày thường – chim báo bão (1967) Những bài thơ đánh giặc (1972) Đối thoại mới (1973) Hoa trước lăng Người (1977) Hái theo mùa (1977) Hoa trên đá (1984). Các tập thơ vận động trên cùng một trục thi pháp Chế Lan Viên, nhưng mỗi tập là một phát triển dung lượng chất chứa hiện thực: chuyện đánh giặc, chuyện đời thường.

    Thơ đánh giặc của Chế Lan Viên là thơ bình luận, tranh luận về phẩm chất anh hùng của cuộc chiến đấu, về lý tưởng cao cả và đức hy sinh to lớn của dân ta. Có thể nói trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, thơ Chế Lan Viên đã thành chỗ tựa tâm hồn cho người đánh giặc. Còn nhớ, những ngày đầu Miền Bắc chống không lực Hoa Kỳ ngay từ 5-8-1964, tin chiến sự như vang cùng thơ Chế Lan Viên, làm phấn chấn và thôi thúc lòng người. Tên sông tên núi gọi lên khi ấy thấm thía, xao xuyến biết bao nhiêu:

    Hãy yêu! Hãy yêu! Hãy yêu và bảo vệ
    Mây nước, cửa nhà, văn học, ngữ ngôn
    Một đảo vắng Hồn Ngư còn chớp bể
    Một rặng núi Kỳ Sơn từng lắm lúc mưa nguồn

    Tình cảm nhà thơ cộng hưởng với tình cảm toàn dân yêu đất nước. Suốt mười năm từ 1965 đến 1975, Chế Lan Viên đồng hành cảm xúc mình với cuộc chiến đấu thống nhất đất nước. Thơ ông vào trận, khi hào sảng âm vang như văn Hịch tướng sĩ thời Trần: Tổ Quốc bao giờ đẹp thế này chăng (1965) Con mắt Bạch Đằng, con mắt Đống đa (1966), Suy nghĩ (1966)... Khi bừng bừng căm giận, sôi sục anh hùng ca:

    Hãy may lấy cờ ta trong giận dữ
    Những lá cờ to gấp triệu núi sông ta
    Dẫu muốn sống không thể quỳ để sống
    Hái hoà bình xin hái giữa phong ba.

    khi lại mảnh mai thăm thẳm như cái nỗi nhớ mơ hồ một địa danh nhỏ nhoi bên kia vĩ tuyến, cái thành phố Sông Cầu, :

    Một trưa bình thường mắt không ngó tới

    Một đất bình thường xe ta qua mau
    Trả thù ta
    Bắt lòng ta nhớ mãi
    Sông Cầu ơi, sông Cầu...

    Ngày toàn thắng 30-4-1975, Chế Lan Viên công bố bài thơ dài Ngày vĩ đại, viết 3-5-1975, in tràn một trang nhật báo khổ to. Giọng thơ ào ạt như thuở nào Đại cáo Bình Ngô trúc chẻ ngói tan, thần tốc thắng giặc, những thương nhớ đau đớn âm thầm nén lại bấy nhiêu năm cắt chia, bom đạn như được ào ra trang giấy cười, khóc, xót thương, hả hê, hào hứng ...Vậy mà chưa đã, Núi sông lành chỗ cắt vẫn còn đau, hai tuần sau đó, vẫn thể thơ ấy, một bài dài gần gấp đôi xuất hiện, sâu lắng thâm trầm hơn, cảm nhận trở lại những gì dân ta, cả phía bên này lẫn phía bên kia, đã cắn răng chịu đựng Đau sông nước muôn phương thân vạc thân cò. Dung lượng bài thơ đủ cho tác giả bình luận mọi lĩnh vực. Chỗ tình cảm đằm thắm, có chỗ lại lý sự, tranh luận. Cái thế tranh luận của người chiến thắng, bút pháp tung hứng nhưng cũng rất dễ tự say lời.

    Thơ đời thường, trong đó có thơ tình yêu, ở Chế Lan Viên rất phong phú. Cũng để dễ nói thì chia ra như thế. Thực tế, đánh giặc đã là chuyện đời thường rồi, đề tài nọ vốn lồng vào đề tài kia . Xếp hàng mua gạo, mua vải hẳn phải là chuyện thường ngày, nhưng cũng là chuyện đánh giặc, là tư thế đánh giặc;

    Một triệu quân giặc rối bời như canh hẹ
    Ở đây ta xếp hàng

    Chế Lan Viên nắm bắt rất nhanh những chủ đề thơ của các sự kiện, các hiện tượng, thậm chí của một nét tâm lý thoáng qua. Bài thơ nào cũng như một chiêm nghiệm xử thế, sức khái quát sâu, mà cảm động:

    Lòng rất là vô lý
    Mừng hoa sữa vào thu
    Lại tiếc hè qua vội
    Chưa kịp hái sen hồ

    Lòng người “tham” là vậy. Ta trải qua mà không để ý. Với Chế Lan Viên, nó đọng lại, nó khuyên ta được những điều xa hơn, rộng hơn chính nó. Có bài, do kiểu tư duy thơ của Chế làm hiện thực bật ra tình huống thơ. Tiếng chim ở Vĩnh Linh sau ngày Mỹ ngừng bom, ngoại cảnh chỉ có thế, nhưng nội tâm nhà thơ đi qua gian lao của chiến tranh, đã tạo nên tình thế xúc động thơ:

    Bốn năm đạn lửa chim bay hết
    Nay tiếng bom im cánh biếc về
    Tiếng hót đầu tiên, ơ lạ lắm!
    Cả làng rưng lệ đứng im nghe

    Câu cuối là của lòng nhà thơ tạo thêm cho hiện thực. Chế Lan Viên ngay cả những bài thơ phục vụ kịp thời cũng không có câu thơ non lép. Ông kỹ càng câu chữ. Gần như bài nào cũng có yếu tố sáng tạo. Người ta yêu tứ thơ của ông, và yêu cả ngôn ngữ, đặc biệt âm điệu câu thơ. Tiếng chim cu gù sau ngày đình chiến cũng trùng xương cốt chủ đề với chim biếc Vĩnh Linh, nhưng phập phồng da thịt cuộc sống xa, gần, xưa, nay. Âm điệu ngắn dài đứt nối vắt qua các câu thơ, như liền lại như đứt, mô phỏng tiếng chim cu gáy những trưa quê rất khêu gợi:

    Hồn đất nước bâng khuâng theo tiếng chim dân dã
    Như chửa nghe bao giờ. Mà như đã
    Nghe rồi. Tự đâu thời xa xửa xa xưa.

    Hai vế đề tài Hoa ngày thường và chim báo bão trong thơ kháng chiến chống Mỹ và mươi năm sau đó của Chế Lan Viên luôn luôn phát triến song hành. Biên độ cảm xúc rộng, bút pháp biến hoá, có lúc kết hợp cả trào phúng.

    Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến luỹ.

    Hình ảnh ấy, trước hết, hợp với chính Chế Lan Viên. Không chỉ vì thơ ông có mặt kịp thời trong những khoảnh khắc thử thách ngặt nghèo của cuộc chiến mà còn ở tầm vóc và tư thế cảm xúc. Ông là người chủ lực trong cả nền thơ, tạo nên mạch trữ tình lịch sử, trữ tình của những sự kiện lớn. Cảm xúc choán những biên độ rất rộng Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào Cửa Bắc đến Văn Chiêu hồn từng thấm giọt mưa rơi. một đầu là lịch sử, đầu kia đã là thân phận con người. Cả hai hình ảnh đều rất gợi cảm, gợi nghĩ ngợi. Nhiều nhà nghiên cứu gọi Chế Lan Viên là nhà thơ trí tuệ ( dù ông không thích, nó như anh đeo kính gọng vàng! ) có lẽ là do đặc tính ôm trùm rộng xa và uyên bác này.

    Kinh nghiệm một nhà thơ lớn cho ông biết cái cách chuyển thơ trên đại lộ rất dễ thiếu đi sắc hoa hương cỏ của những lối mòn quanh quất, nhỏ mà rất thơ. Hướng Hoa ngày thường luôn được ông để tâm khai thác. Chế Lan Viên tận dụng tứ tuyệt để viết ngay, viết gọn những thoáng gặp thơ hồn nhiên, không để cái thói quen “tư tưởng hoá” kịp ập vào

    Quên mất mình vừa sáu chục
    Mở trang giấy rộng viết dài
    Gương nhắc mái đầu chớm bạc
    Lại làm có bốn câu thôi

    Ông nhớ căn phòng ở sứ Việt nước người trong mấy đêm tá túc cũng như từng chợt nhớ: nhớ nhà cha mẹ, cảnh trường xưa...Những cái nhớ không đâu, những cái buồn không định... ông đều đánh dấu vào thơ. Có khi nghĩa thơ chưa sâu nhưng nghĩa đời lại nặng, những câu thơ nhỏ cho thấy đời một nhà thơ lớn:

    Còng lưng tưới nước , vạt rau khô
    Bơm hỏng mà đâm khổ cả nhà
    Đêm ngủ chỉ lo toàn vật giá
    Xa dần truyện ngắn, bớt dần thơ

    Xa dần truyện ngắn là bà Vũ Thị Thường, vợ ông, bớt dần thơ là ông muốn diễu mình. Dọn vào thành phố Hồ Chí Minh, ông không xin nhà, tự bỏ tiền mua một căn nhỏ trong hẻm. Ít lâu sau, bán đi , mua một căn có vườn, tít ngoài Tân Bình. Nhà một tầng, cây ăn quả xung quanh. Ông thích lắm, đặt tên chữ Hán cho sang Viên tĩnh viên. Nhưng đất phèn, cây không lên được. Cái ý định tự trồng lấy rau mà ăn xem ra cũng không dễ. Bài thơ trên viết năm 1985, cuộc sống vật chất toàn dân đều khó. Tôi đến thăm, ông mặc bộ bà ba nâu, đi chân đất, dẫn đi thăm cây, nói về đất phèn và giảng Nam Hoa Kinh. Năm (1986), Khi nhà xuất bản Văn Học phát hành Tuyển tập Thơ Chế Lan Viên 400 trang, ông hào hứng viết thư: thế là mình xây xong mộ cho mình rồi. Bây giờ còn ngày nào, mình nằm gác chân lên cửa sổ nhà mình, muốn viết gì thì viết. Lắng nghe trong câu nói tếu táo ấy, một mong muốn thầm lặng của ông, hình như ông còn nhiều thứ phải đợi xong nghĩa vụ với đời mới viết cho mình. Hôm đọc trên báo bài Cờ lau Đinh Bộ Lĩnh (1988), qua tâm sự ông vua, đã thoáng thấytâm sự ông nhà thơ:

    Đã lâu ta không nghe hồn lau gọi nữa
    Xa tiếng gió xạc xào ?
    Xa mùi bùn, mùi trâu, rơm rạ ?
    Chỉ nghe danh vọng ầm ào ? Vinh quang xí xố.

    Câu cuối cùng ở bài thơ ấy, khi ông vua Đinh kêu lên: Hồn ta ở đâu?. Ta nghe thấy khát khao của nhà thơ Chế:

    anh ấy Điêu Tàn, anh ấy Phù Sa
    anh ấy đọc hồn trời, hồn đất
    câu cuối cùng hỏi đâu hồn ta
    (thơ Vũ Quần Phương, trang45,

    Vết thời gian, Văn học-1996)

    (còn tiếp)
    Last edited by phale; 07-08-2009 at 01:54 PM.

Chủ đề tương tự

  1. Thác Giang Điền
    By travelvietnam in forum Du Lịch Đó Đây
    Trả lời: 0
    Bài cuối: 08-04-2011, 11:26 AM
  2. Núi non Hà Giang
    By Quỳnh_muộn in forum Du Lịch Đó Đây
    Trả lời: 2
    Bài cuối: 03-12-2009, 05:43 PM
  3. Pha Lê làm người đẹp giang hồ
    By TeacherABC in forum Tin tức - Đời sống Điện ảnh
    Trả lời: 0
    Bài cuối: 24-09-2009, 08:57 AM
  4. Lưu Hương Giang - Vol.1
    By Đôi Mắt Mùa Đông in forum Links Download Nhạc Việt
    Trả lời: 0
    Bài cuối: 28-07-2009, 11:39 AM
  5. Thành phố mưa bay - Bằng Giang
    By Nguyên Thoại in forum T
    Trả lời: 1
    Bài cuối: 18-06-2009, 10:21 AM

Posting Permissions

  • Bạn không thể tạo chủ đề mới
  • Bạn không thể trả lời
  • Bạn không thể dùng tập tin đính kèm
  • Bạn không thể hiệu chỉnh bài
  •