Trang 1 / 2 12 LastLast
Bài 1 đến 10/34

Chủ đề: Tìm hiểu thế giới thi nhân.... (Nguyễn Bính-Thi sĩ giang hồ)

Hybrid View

  1. #1
    Gold Member PhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucket
    Ngày gia nhập
    May 2009
    Bài viết
    828
    Thanks
    4.832
    Thanked 2.769 Times in 576 Posts

    Default Ðề: Tìm hiểu thế giới thi nhân....

    Phần 2
    Những bài thơ nổi tiếng của Nguyên Sa


    Ít người biết những bài thơ nổi tiếng của Nguyên sa như Tiễn biệt, Paris có gì lạ không em, Tuổi Mười Ba, của Áo Lụa Hà Ðông, Tháng Sáu Trời Mưa, Cần Thiết , .. ông viết lúc đi "cua" Nga, sau này là người bạn đời yêu dấu của ông.

    Ông đã viết về những ngày du học ở Pháp, về quê hương, về tình yêu, và kết thúc bằng lễ cưới của mình như sau:


    “...Tôi không muốn đi, tôi muốn ở lại, tôi gọi trở về quê hương là đi, tôi gọi tới Paris là về. Tình yêu của tôi ở đó, phần đời có trọng lượng của toàn thể của tôi ở đó. Cảm xúc lớn lao, giao động cực mạnh mang lại hàng loạt những bài thơ về biệt ly. Paris có gì lạ không em, Tiễn biệt, Paris. Tôi khởi sự thơ với chủ đề ly biệt. Tôi bắt đầu cùng lúc những bài tình ái và những bài biệt ly. Cũng có thể nói được như thế. Thơ chủ đề biệt ly và thơ chủ đề tình yêu đến gần như trong cùng một thời gian. Xen kẽ. Hỗ trợ. Trong thơ tình có khắc khoải chia xa. Trong Tiễn biệt, Paris có gì lạ không em, Paris có gục đầu trên vai nhau. Nga đầy ắp Paris là bài thơ tình đầu tiên, sau đó là Tuổi Mười Ba, của thời kỳ Paris gục đầu trên vai nhau. Paris tiễn nhau ở gare De Lyon, ở phi trường Orly, Áo Lụa Hà Ðông, Tháng Sáu Trời Mưa, Cần Thiết của Sài Gòn 1956 và những năm kế tiếp, Nga 1955, Tiễn biệt đầu tiên. 1953, hai bài Paris 54 và 55. Thơ tình của những ngày tháng hôn nhân đến trước thơ tình của tuổi học trò. Áo Lụa Hà Ðông, Tuổi Mười Ba, Tháng Sáu Trời Mưa trình làng ở Sáng Tạo, khi đã trở về Việt Nam, làm khoảng thời gian 56-57. Nga in trên tờ thiệp báo hỷ, bài thơ tương đối dài làm cho người bạn ấn loát in tặng phải chọn lựa tờ giấy lớn hơn thiệp báo hỷ rồi gấp lại làm ba. Tờ thiệp báo hỷ của tôi in trên khổ giấy năm rưỡi tám rưỡi, giấy bảy chục gam, loại láng, in chữ nghiêng, tới chữ O của ‘môi em tròn như chữ O’ câu thơ in nghiêng, anh bạn ấn công chỉ cho tôi thấy chữ O anh đã chọn kiệu chữ thẳng, rất tượng hình thơ...”
    Last edited by Lão K; 13-06-2009 at 06:48 AM.

  2. #2
    Gold Member PhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucket
    Ngày gia nhập
    May 2009
    Bài viết
    828
    Thanks
    4.832
    Thanked 2.769 Times in 576 Posts

    Default Ðề: Tìm hiểu thế giới thi nhân....

    Áo Lụa Hà đông



    Photo by TMV


    Nắng Sài gòn anh đi mà chợt mát
    bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
    anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
    thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng

    anh vẫn nhớ em ngồi đây tóc ngắn
    mà mua thu dài lắm ở chung quanh
    linh hồn anh vội vã vẽ chân dung
    bay vội vã vào trong hồn mở cửa

    gặp một bữa, anh đã mừng một bữa
    gặp hai hôm thành nhị hỹ của tâm hồn
    thơ học trò anh chất lại thành non
    và đôi mắt ngất ngây thành chất rượu

    em không nói đã nghe từng gia điệu
    em chưa nhìn mà đã rộng trời xanh
    anh trông lên bằng đôi mắt chung tình
    với tay trắng, em vào thơ diễm tuyệt

    em chợt đến, chợt đi, anh vẫn biết
    trời chợt mưa, chợt nắng, chẳng vì đâu
    nhưng sao đi mà không bảo gì nhau
    để anh gọi, tiếng thơ buồn vọng lại

    để anh giận, mắt anh nhìn vụng dại
    giận thơ anh đã nói chẳng nên lời
    em đi rồi, sám hối chạy trên môi
    những tháng ngày trên vai buồn bỗng nặng

    em ở đâu, hỡi mùa thu tóc ngắn
    giữ hộ anh màu áo lụa Hà Đông
    anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
    giữ hộ anh bài thơ tình lụa trắng
    Nguyên Sa
    Last edited by Lão K; 13-06-2009 at 06:47 AM.

  3. #3
    Gold Member PhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucket
    Ngày gia nhập
    May 2009
    Bài viết
    828
    Thanks
    4.832
    Thanked 2.769 Times in 576 Posts

    Default Ðề: Tìm hiểu thế giới thi nhân....

    PARIS CÓ GÌ LẠ KHÔNG EM?



    [
    Photo by TMV


    Paris có gì lạ không em?
    Mai anh về em có còn ngoan
    Mùa xuân hoa lá vương đầy ngõ
    Em có tìm anh trong cánh chim

    Paris có gì lạ không em?
    Mai anh về giữa bến sông Seine
    Anh về giữa một giòng sông trắng
    Là áo sương mù hay áo em?

    Em có đứng ở bên bờ sông?
    Làm ơn che khuất nửa vừng trăng
    Anh về có nương theo giòng nước
    Anh sẽ tìm em trong bóng trăng

    Anh sẽ thở trong hơi sương khuya
    Mỗi lần tan một chút sương sa
    Bao giờ sáng một trời sao sáng
    Là mắt em nhìn trong gió đưa...

    Anh sẽ cầm lấy đôi bàn tay
    Tóc em anh sẽ gọi là mây
    Ngày sau hai đứa mình xa cách
    Anh vẫn được nhìn mây trắng bay

    Anh sẽ chép thơ trên thời gian
    Lời thơ toàn những chuyện hờn ghen
    Vì em hay một vừng trăng sáng
    Ðã đắm trong lòng cặp mắt em?

    Anh sẽ đàn những phím tơ trùng
    Anh đàn mà chả có thanh âm
    Chỉ nghe gió thoảng niềm thương nhớ
    Ðể lúc xa vời đỡ nhớ nhung

    Paris có gì lạ không em?
    Mai anh về mắt vẫn lánh đen
    Vẫn hỏi lòng mình là hương cốm
    Chả biết tay ai làm lá sen?...
    Nguyên Sa
    Last edited by Lão K; 13-06-2009 at 06:46 AM.

  4. #4
    Gold Member PhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucket
    Ngày gia nhập
    May 2009
    Bài viết
    828
    Thanks
    4.832
    Thanked 2.769 Times in 576 Posts

    Default Ðề: Tìm hiểu thế giới thi nhân....

    NGA


    Painted by Đinh Cường


    Hôm nay Nga buồn như một con chó ốm
    Như con mèo ngái ngủ trên tay anh
    Ðôi mắt cá ươn như sắp sửa se mình
    Ðể anh giận sao chả là nước biển...

    Tại sao Nga ơi, tại sao...
    Ðôi mắt em nghẹn như sát từng lần vỏ hến
    Hơi thở trùng như sợi chỉ không căng
    Bước chân không đều như chiếc thưóc kẻ ai làm cong
    Ai dám đển ở ngoài mưa, ngoài nắng!

    Nói cho anh đi, Nga ơi...
    (em làm ơn chóng chóng)
    Lại bên anh đi - bằng một lối rõ thật gần
    Bằng một lối gần hơn con đường cong
    Bằng một lối gần hơn con đường thẳng
    Bằng đôi má hồng non, bằng mắt nhìn trinh trắng
    Bằng những lời yêu mến tan trên đôi môi...

    Và cười đi em ơi,
    Cười như sáng hôm qua.
    Như sáng hôm kia...
    Cười đi em
    Cười như những chiều đi học về
    Em đố anh Paris có bao nhiêu đèn xanh đèn đỏ
    Và anh đố em: Em có nhớ
    Mỗi ngày bao nhiêu lần anh hôn em ?...

    Cười đi em
    Cười rõ thật nhiều đi em...
    Rồi đố anh
    Cho anh không kịp đếm
    Cho anh tan trong niềm vui
    Cho bao nhiêu ngọn đèn xanh, đèn đỏ thi nhau cười
    Vì hai bàn tay chúng mình sát lại
    (tay anh và tay em)
    Nhớ hai giãu phố chạm vào nhau
    Hai giãy phố chúng mình vẫn đi về
    Em nhớ không ?...

    Em nhớ không, đã có lần anh van em
    Ðã có một lần lâu hơn cả ngày xưa
    Em sợ thời gian buồn nhu mọt nhấm từng câu thơ
    Em sợ thời gian ác như lửa thiêu từng thanh củi
    Mắt e ngại như từng con chỉ rối
    Em sợ những ngày trời nắng như hôm nay
    Em sợ những đường tàu vướng víu như chỉ tay
    Không dám chọn lấy một ga hò hẹn
    Em nhớ không , anh đã van em
    (và em còn van em như ngày xưa...)
    Em đừng buồn như những chiếc lá tre khô
    Em đừng buồn như những nóc nhà thờ không có tuổi
    Anh van em đừng nhìn anh và đừng cười gượng gạo
    Em đừng cười như ngọn bấc gần hao
    Những nụ cười vướng trên đôi gò má xanh xao
    Những nụ cười vướng trên mắt nhìn trắng đục
    Ðừng để anh nhìn em rồi nghẹn ngào chớp mắt
    Như hai vì sao le lói trong đêm sương mù
    Ðừng để thời gian dầy như trăm vạn lớp chấn song thưa
    Về xen giữa hai bàn tay sầu tủi!...

    Em nhớ không , anh đã van em đừng buồn
    Anh đã van em đừng để những nụ cười chắp nối
    Mắt anh sẽ mờ vì những vết kim khâu
    Và anh buồn, rồi lấy ai mà dỗ nhau
    Lấy ai mà dỗ hai con chó ốm! ...

    Em nhớ không cả một hôm trời mưa
    Một hôm trời mưa tấm tức
    Một hôm trời mưa không ướt cánh chuồn chuồn
    Những hạt mưa không đan thành mắt áo len
    Những hạt mưa không làm phai màu nước mắt
    Em đã khóc, anh đã khóc và chúng mình đã khóc
    Bước chân lê trên những hè phố không quen
    Chúng mình đã khóc vì không được gần nhau như hai con chim
    Chúng mình đã khóc vì không có tiền làm lễ cưóoi , lễ xin
    Và em nhơ không , chúng mình đã hỏi nhau:
    Tại sao phải làm lễ tơ hồng
    Tại sao phaỉ nhờ người ta buộc chỉ vào chân
    Khi tay em đã vòng ra đằng sau lưng anh
    Khi tay anh đã vòng ra đằng sau lưng em
    Người ta làm thế nào cắt được
    Bốn bàn tay chim khuyên!...

    Người ta làm thế nào cấm được chúng mình yêu nhau

    Nếu anh không có tiền mua nhẫn đeo tay
    Anh sẽ hôn đền em
    Và anh bảo em soi gương
    Nhìn vết môi anh trên má
    Môi anh tròn lắm cơ
    Tròn hơn cả chữ O
    Tròn hơn cả chiếc nhẫn
    Tròn hơn cả hai chiếc nhẫn đeo tay !...

    Chúng mình lấy nhau
    Cần gì phải ai hỏi
    Cả anh cũngkh cần phải hỏi anh
    "Có bằng lòng lấy em?..."
    Vì anh đã trả lời anh
    Cũng như em trả lời em
    Và cũng nghẹn ngào nước mắt !...

    Và em sẽ cười phải không em
    Em sẽ không buồn như một con chó ốm
    Như con mèo ngái ngủ trên tay anh
    Ðôi mắt cá ươn như sắp sửa se mình
    Ðể anh giận sao chả là nước biển!...

    Em sẽ cười phải không em
    Vì không ai cấm được chúng mình yêu nhau!...
    Không ai cấm được anh làm những câu thơ anh thích
    Không ai cấm được anh làm cả bài thơ
    Với một chữ N
    Với một chữ G
    Và với một chữ A
    Người ta có thể đọc một câu, hai câu, hay cả ba
    Người ta có thể không thích
    (thì người ta không thích một mình)
    Nhưng người ta không cấm được anh yêu bài thơ của anh
    Nguyên Sa


    Nguyên Sa uống thuốc liều nên mới dám gọi vợ mình là "con chó ốm"

  5. #5
    Gold Member PhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucket
    Ngày gia nhập
    May 2009
    Bài viết
    828
    Thanks
    4.832
    Thanked 2.769 Times in 576 Posts

    Default Ðề: Tìm hiểu thế giới thi nhân....

    Phần 3
    Nguyên Sa và chiến tranh


    Nguyên Sa còn làm thơ về những ngày ở lính và chiến tranh ở đây đã được nhìn ngắm với con mắt của người trong cuộc. Một cuộc chơi tàn bạo được bày ra với tất cả những sự phi lý của nó. Những người tham dự, dù tình nguyện hay bắt buộc, cũng bị lôi đi trong con lốc mịt mờ của thời thế.

    Có một thời gian trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa, ông làm việc trong "Chung Sự Vụ". Đây là một đơn vị tiếp nhận thi hài của những người lính chết trận, lo việc hậu sự và giao lại cho gia đình mai táng. Có lẽ đây là chuỗi ngày đau khổ nhất khi ông phải chứng kiến sự tột cùng đau khổ của những người bất hạnh khi người thân nằm xuống trong một cuộc chiến phi lý, huynh đệ tương tàn.

    Trong khoảng thời gian này, ông làm bài thơ "Sân Bắn" và ông đã viết về bài thơ này như sau


    “Khi Sân Bắn, thơ, đến với tôi, bia cũng tới, đầu tiên, không có chân tay, cảm xúc của thơ mang cho Sân Bắn thơ thêm hình ảnh của ta, của địch, thân phận con người, sự vong thân của bản ngã...

    “Bầu trời của Sân bắn có bia lên, có thân người, có ta, có địch, có tay chân thừa thãi, có tác dụng của xạ trường đến nơi thính giác và cả trí tuệ. Óc tai, hình nhân, giấy bồi, hầm bia, đạn đầu lửa bay trong những buổi thực tập tác xạ ban đêm. Tôi biết kỹ thuật thi nhân từ trước khi thực hiện Sân Bắn, từ lâu. Cũng như nhiều người làm thơ, tôi có một thời kỳ lục bát buổi đầu đời. Thi nhân vừa dẫn bài thơ vô, vừa dẫn từ câu này qua câu kia từ đoạn này sang đoạn khác. Luận lý của suy luận là do đó, là cho nên, là vậy thì. Có thể là tất cả những từ đó và những từ tương tự khác cùng loại.

    Tất cả mọi người đều phải chết

    Socrate là người

    Socrate phải chết

    Chân lý của kết luận chứa ẩn trong những đại tiền đề. Chân lý của tiền đề, bằng những do đó, là vậy thì, là cho nên, đi tới kết luận. Nói rõ ra cũng tốt, không nói tới cũng tốt. Từ ngữ hiện hay ẩn đưa tới kết luận là đưa tới chân lý tất yếu đã nằm trong những tiền đề. Thi nhân của thơ đưa tới những kết luận khác biệt, không tiên liệu trước được, nhảy qua trùng điệp những đồi núi, những bình nguyên rơi xuống một miền đất của riêng. Bia lên mở ra thân người, mở ra thế giới mà khoảng cách giữa ta và địch bị tiêu hủy bởi cái chết, mở ra sự thừa thãi của tay chân, sự bất lực của giác quan và trí tuệ. Trong Sân Bắn, thi nhân hơn một nửa làm nhiệm vụ của liên tự, nó cho phép nói nhiều với ít chữ hơn.

    Bầu trời của thơ không phải là bầu trời của sân bắn xạ trường. Bầu trời Sân Bắn thơ có những đám mây của nó, có vài phần vật liệu từ hơi nước bay lên, nhưng lại có nhiều phần mây có màu sắc bay tới từ thế giới nội tâm, có những đám mây màu sắc tình cảm, đám mây màu sắc suy tư, đám mây màu ngậm ngùi thân phận.

    Chủ nghĩa tả chân và những anh em của nó, như tả chân xã hội, khó lòng mang lại bầu trời thơ, vì không gian của nó hạn hẹp, chỉ có mây của nước bốc hơi, không có chỗ nào cho những đám mây tuyệt vời kia.”


    Không chữ nghĩa nào có thể diễn đạt được sự thê lương của mạng sống con người trong chiến tranh như câu cuối của bài thơ "Nghìn cây nến thắp trên đầu đạn bay"

    Last edited by Lão K; 13-06-2009 at 07:44 AM.

  6. #6
    Gold Member PhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucket
    Ngày gia nhập
    May 2009
    Bài viết
    828
    Thanks
    4.832
    Thanked 2.769 Times in 576 Posts

    Default Ðề: Tìm hiểu thế giới thi nhân....

    Sân Bắn




    Bia lên ta thấy thân người
    Thấy ta thấy địch, thấy đời lãng du
    Thấy tay dư, thấy chân thừa
    Thấy tai nghễnh ngãng, mắt mù óc không..
    Một đời phơ phất hình nhân
    Thấy còn thấy hết, sau cùng thấy đau
    Bia lên thấy mẹ u sầu
    Giấy bồi tơi tả cúi đầu trong ta
    Trời cao ngó xuống thịt da
    Bia lên trông cũng vật vờ cỏ xanh
    Bia lên tìm chỗ ta nằm
    Non cao duỗi cẳng em còn thấy đâu
    Hầm bia buồn đến mộ sâu
    Nghìn cây nến thắp trên đầu đạn bay.

    Nguyên Sa

  7. #7
    Gold Member PhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucket
    Ngày gia nhập
    May 2009
    Bài viết
    828
    Thanks
    4.832
    Thanked 2.769 Times in 576 Posts

    Default Ðề: Tìm hiểu thế giới thi nhân....

    Phần cuối
    Nơi an nghĩ cuối cùng của Nguyên Sa


    Nguyễn Mạnh Trinh, nhà văn và cũng là thi sĩ nổi tiếng ở hải ngoại, đã viết về nơi an nghĩ cuối cùng của thầy mình trong một đoản văn như sau

    Ngày cuối tuần, là ngày Thanh minh. Nhớ lại câu Kiều “Thanh minh trong tiết tháng ba. Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh..” để nhớ bổn phận của một người con, của một người cầm bút nhớ lại những người đã ra đi. Nghĩa trang Peek Family ở cuối đường Bolsa, nơi an nghỉ của mẹ tôi, của thầy Nguyên Sa, thầy Nguyễn Khắc Hoạch, thầy Vũ Văn Tiên, anh Mai Thảo, anh Long Ân, Nguyễn Tất Nhiên, và người anh vợ tôi vừa ra đi cách nay vài ngày, ở những ngôi mộ mà ngày hôm nay tôi đến cắm những nén nhang tưởng nhớ. Con đường Bolsa, con đường đặc biệt của người tị nạn Việt Nam, nơi mở đầu một cuộc sống với phố xá ồn ào, cửa hàng tấp nập và chấm dứt đời tị nạn với những ngôi mộ thinh lặng chỉ có cây cỏ và những chú chim dạn dĩ. Trời hôm nay nắng đẹp trải màu đỏ hồng trong những thảm cỏ xanh rờn. Cuối Mùa Xuân đầu Mùa Hè, tầng mây cao vút, thấy trời và đất thật gần nhau và người chết và người sống dường như có những rung động sâu xa từ tâm thức. Ðến từng ngôi mộ, nhìn lại di ảnh những người đã khuất, tự nhiên tôi thấy lòng bồi hồi. Chỉ mấy năm qua thôi, mà trải qua tưởng như lâu lắm. Những câu thơ trên bia mộ thi sĩ Nguyên Sa, Mai Thảo, Long Ân, Nguyễn Tất Nhiên, hay những câu đối trên bia mộ giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch, Vũ Văn Tiên, như những nhắc nhở để nhớ về, để tưởng vọng.

    Tôi nhìn di ảnh thầy Nguyên Sa, thấy cái nón kết quen thuộc, thấy nụ cười hiền hòa bao dung khi bị lũ học trò cũ chúng tôi chọc phá. Mới đây mà đã mười năm.


    Trong những năm cuối của cuộc đời, Nguyên Sa có cái nhìn về tình yêu như sau:

    “Ðề tài tình yêu thường thay đổi theo thời gian... trước năm 1963, tình yêu đó thuần túy những cảm xúc, những đam mê. Ðó là niềm đam mê, lúc tin tưởng mạnh mẽ, lúc rụt rè thắc mắc, lúc muốn ngỏ lời, lúc không dám ngỏ. Nhưng về sau lúc người ta 50, 60 tuổi, đam mê tình ái không còn nữa, như xao xuyến về một vạt áo trong sân trường, như bồi hồi vì một mái tóc xõa ngang vai, không có nữa. Thời gian xóa bỏ nhiều thứ. Tình yêu có bóng dáng của sự buồn phiền xót xa vì thời gian trôi qua. Và ngậm ngùi nhận ra rằng việc chấm dứt cho tất cả mọi sự sẽ phải tới. Khi nào suy nghĩ ấy xen lẫn trong đời sống trong tình yêu trong thơ, tất cả sẽ chán chường. Võ sĩ lên đài mà không nghĩ đến chiến thắng đến tiền thưởng mà chỉ nghĩ đến cái chết gần tới thì chắc chắn quả đấm của võ sĩ ấy phải khác với một võ sĩ chỉ nghĩ đến cách thế để cho đối thủ quỵ ngã. Ðối với tôi tâm sự về tình yêu lúc 50 tuổi trở lên như võ sĩ lên đài thay vì chiến đấu mãnh liệt say mê thì lại đưa quả đấm giơ lên rồi bỏ xuống. Tư tưởng cái chết ám ảnh mạnh mẽ tình yêu...”

  8. #8
    Gold Member PhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucket
    Ngày gia nhập
    May 2009
    Bài viết
    828
    Thanks
    4.832
    Thanked 2.769 Times in 576 Posts

    Default Ðề: Tìm hiểu thế giới thi nhân....


    Nguyên Sa ở Peek Family Memorial Park









    Nằm chơi ở góc rừng này
    Chưa thiên thu cũng đã đầy cỏ hoang
    Xin em một sợi tóc vàng
    Làm hoa khởi sự cho ngàn kiếp sau
    Biết đâu thảo mộc bớt đau?
    Biết đâu có bản kinh cầu dâng lên?

    Nguyên Sa

  9. #9
    Gold Member PhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucket
    Ngày gia nhập
    May 2009
    Bài viết
    828
    Thanks
    4.832
    Thanked 2.769 Times in 576 Posts

    Default Ðề: Tìm hiểu thế giới thi nhân....


    Nguyên Sa và Tình Ca Ngô Thụy Miên


    Tin nhà thơ Nguyên Sa mất đến với tôi thật đột ngột! Sáng nay một người bạn gọi vào sở hỏi tôi:"Ông có biết nhà thơ Nguyên Sa vừa qua đời chưa?" Tôi bàng hoàng, thẩn thờ một chút mặc dù đã được biết tình trạng sức khoẻ của ông mấy năm gần đây. Chúng tôi trao đổi vài ba câu chuyện. Tôi cám ơn bạn rồi thầm nói với mình: "Thôi, cái thời tuổi trẻ mộng mơ, yêu đương nồng nàn ngày nào đã thực sự không còn nữa. Không còn nữa những lụa là mưa nắng Sàigòn, cũng không còn nữa Paris, người tình và giòng sông Seine với những vòng tay ôm, những môi hôn vội vả… Người đạo diễn đã bỏ cuộc chơi, bọn tài tử chúng tôi ở lại còn gì để bàn chuyện thu phong, còn gì để làm dáng với đời, làm điệu với người!"...

    Ngoài trời những giọt mưa vẫn tiếp tục rơi đều trên khung cửa kính. Buổi chiều về nhà, bạn bè dưới Cali gọi lên báo tin. Bỏ điện thoại xuống, tôi ra vườn sau nhà. Nhìn những cánh hoa anh đào đang rụng bay theo gió, chợt thấy lạnh, và nỗi buồn ập đến khiến tôi choáng váng. Buổi tối anh Nguyễn Mạnh Trinh gọi lên nhờ tôi đóng góp một bài để đăng trong tuyển tập anh dự định in trong những ngày sắp tới. Tôi hứa sẽ viết một chút về những bản nhạc đã phổ từ thơ ông.

    Tôi không rõ nhà thơ Nguyên Sa từ Pháp trở về Việt Nam từ năm nào, chỉ biết cùng với nhà thơ Cung Trầm Tưởng, ông đã đem Paris về cho bọn trẻ chúng tôi. Một Paris với hè phố Saint Michel, với sông Seine, tháp Eiffel, những cặp tình nhân, giáo đường sương mù… Cùng một lúc ông đã mang nắng Sàigòn, lụa Hà Ðông và đâu đó bóng dáng Hà Nội vào thi ca Việt Nam của chúng ta một cách thân thiết nhẹ nhàng. Nhiều người hỏi tôi có quen biết hay có họ hàng với nhà thơ? Như tôi đã nói, chúng tôi không có liên hệ gì ngoài sự cảm thông của hai con người cùng yêu nghệ thuật. Nói rõ hơn, tôi chỉ là một trong hàng triệu người yêu quí thơ ông, một người may mắn có thể gửi lời biết ơn giòng thơ tuyệt vời của ông qua những nốt nhạc giản dị, chân tình.

    Cuối năm 1969, khi một số tình khúc của tôi đã được phổ biến rộng rãi trên các đài phát thanh, cũng như trong những đêm sinh hoạt văn nghệ được tổ chức tại nhiều trung tâm văn hoá, hay các giảng đường đại học. Tôi đến với thơ Nguyên Sa, không từ một chọn lựa, mà vì tôi đã nhìn thấy mình trong thơ của ông, đã nghe những rung động thầm kín nhất của tuổi trẻ mình được ông tạo lên bằng những lời thơ ngọt ngào tình tứ, tươi mát. Cũng như bao nhiêu anh em thanh niên sinh viên học sinh của thập niên 60, tôi yêu và thuộc không ít thơ của ông. Nói đến Áo Lụa Hà Ðông, có lẽ chúng ta mấy ai không biết:

    Nắng Sàigòn anh đi mà chợt mát
    Bởi vì em mặc áo lụa Hà Ðông.

    Cá nhân tôi khi đọc bài thơ đã chú ý ngay 4 câu:

    Em chợït đến, chợt đi anh vẫn biết
    Trời chợt mưa, chợt nắng chẳng vì đâu
    Nhưng sao đi mà không bảo gì nhau
    Ðể anh gọi, tiếng thơ buồn vọng lại.

    Lời thơ man mác buồn, đã vỗ về, chia xẻ tâm tư tôi ngày tháng đó. Lang thang Sàigòn một ngày nắng nhẹ, giòng nhạc lan man trong đầu óc: "Rê Ðô Rê, Sol Sib Sib Rê Rê, Sol Sol La, Sol Sib Rê Rê La…", tôi đã hoàn tất phần điệp khúc được viết theo cung Rê thứ để thích hợp với hồn thơ. Khi phổ hai phần đầu, và cuối, tôi đã gặp khó khăn với hai câu:

    Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng

    Giữ hộ anh bài thơ tình lụa trắng

    vì vần trắc của chữ "trắng" đã không thích hợp với giòng nhạc chuyển tiếp cần âm bằng. Sau hơn một tuần loay hoay tìm kiếm, cuối cùng tôi đã phải dùng một phương pháp phổ thơ cũ: nhắc lại lời thơ ở câu trên để chuyển ý nhạc trở về phần hai, cũng như đoạn cuối của bản nhạc:

    Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng.
    Anh vẫn nhớ em ngồi đây, tóc ngắn

    Ðể tạo ấn tượng nuối tiếc cho người nghe, khi kết thúc bản nhạc, tôi đã thêm câu:

    Anh vẫn yêu màu áo ấy, em ơi

    với giòng nhạc đi lên, chuyển từ Sol thứ qua Sib, La, và chấm dứt bằng Rê trưởng.

    Cuối năm 1970, trong một đêm nhạc tình ca tại trường đại học Khoa Học, tôi đã giới thiệu bài hát tới các bạn trẻ của tôi. Sau đó bản nhạc đã được phổ biến thường xuyên qua các chương trình nhạc do tôi và nhạc sĩ Trường Sa thực hiện trên đài phát thanh Quân Ðội, cũng như trong các đêm nhạc do bạn bè chúng tôi tổ chức tại Sàigòn. Ngoài ra trong năm 1970, tôi cũng đã viết "Tình Khúc Tháng Sáu" phổ theo ý thơ bài Tháng Sáu Trời Mưa của Nguyên Sa. Mãi đến năm 1984 tôi mới phổ bài "Tháng Sáu Trời Mưa" của ông.

    Những năm 60, 70, bọn trẻ chúng tôi dù trưởng thành trong khói lửa chiến tranh, có ai không mơ một ngày được đặt chân đến Paris, được cùng người yêu dạo chơi phố phường Paris, hay lang thang bên bờ sông Seine nhớ đến một cuộc tình… Paris như một lời kêu gọi, một nơi chốn tìm về cõi tình yêu. Từ những mộng ước đó, bản nhạc thứ hai tôi phổ từ thơ Nguyên Sa đã thành hình. Có những bài thơ khi muốn phổ nhạc, người nhạc sĩ phải tìm điệu nhạc để chuyên chở ý thơ, hoặc phải thay đổi lời thơ để nhập vào ý nhạc… Riêng "Paris Có Gì Lạ Không Em" khi đọc lên tôi đã nghe phảng phất tiếng phong cầm rộn rã của nhịp 3 luân vũ. Trên phím dương cầm, giòng nhạc dồn dập, chạy dài trên 10 đầu ngón tay, tôi đã hoàn tất phổ bài thơ trong một ngày đầu xuân năm 1971.

    Cung Ðô trưởng mở đầu nhịp nhàng:

    Paris có gì lạ không em
    Mai anh về, em có còn ngoan...

    tôi thích nhất câu:

    Là áo sương mù hay áo em

    từ cung Ðô trưởng đổi chuyển qua La thứ để vào phần điệp khúc:

    Anh sẽ cầm lấy đôi bàn tay
    Tóc em anh sẽ gọi là mây...

    Khi Hoàng Phúc bạn tôi hát bài này lần đầu tiên, đã nói "bài này phải để chị Thái Thanh hát mới được". Ðúng như lời Phúc nói, sau này chị Thái Thanh đã thu bài này. Ðể thêm một chút Paris, chị đã hát:

    La la la la la la
    La la la la la la

    khi kết thúc bản nhạc.

    Sau Áo Lụa Hà Ðông và Paris Có Gì Lạ Không Em, tôi đã phổ tiếp Tuổi 13. Cũng như "Nắng Sàigòn anh đi mà chợt mát. Bởi vì em mặc áo lụa Hà Ðông", "Áo nàng vàng tôi về yêu hoa cúc, Áo nàng xanh tôi mến lá sân trường" là 2 câu thơ được bọn trẻ chúng tôi thuộc nằm lòng ngày đó. Tôi yêu cái ý thơ hồn nhiên, lời thơ trong sáng. Ðọc bài thơ thấy hồn lâng lâng, như đang nhớ nhung, hẹn hò, đang đợi chờ, mơ ước. Ý nhạc đến thật nhanh:

    Trời hôm nay mưa nhiều hay rất nắng
    Mưa tôi trả về bong bóng vỡ đầy tay...

    Tôi đã vào đề với những nốt nhạc cao của cung Ðô trưởng để diễn tả cái thắc mắc ngày mưa ngày nắng của mình. Khi chuyển qua điệp khúc tôi nhắc lại câu "Tôi phải van lơn ngoan nhé đừng ngờ…" 2 lần như một lời trấn an người tình nhỏ và kết thúc tôi nhắc lại câu "Nên đến trăm lần, nhất định mình chưa yêu" như một câu hỏi cho chính lòng mình. Tôi vẫn nghĩ bản nhạc với những niêm luật gò bó đã không thể nói lên hết được ý thơ của tác giả. Chỉ hy vọng bản nhạc đã không làm giảm giá trị của bài thơ.

    Ðầu năm 1974, khi quyết định cùng một nhóm bạn thực hiện cuốn băng Tình ca Ngô Thụy Miên, tôi đã đến gặp nhà thơ để xin phép thu 3 bản nhạc. Lần đầu tiên nói chuyện để lại ít nhiều kỷ niệm. Nhà thơ rất giản dị, dáng dấp xuề xoà. Ông rất vui khi biết tôi phổ thơ ông, và hỏi tôi sẽ nhờ ai hát ? Tôi nói nhạc sĩ Văn Phụng viết hoà âm, ca sĩ Duy Trác hát Áo Lụa Hà Ðông, Thái Thanh hát 2 bài Paris Có Gì Lạ Không Em, Tuổi 13. Và từ đó, Áo Lụa Hà Ðông, Paris Có Gì Lạ Không Em , Tuổi 13, đã trở thành một phần đời nhạc Ngô Thụy Miên.

    Năm 1980 khi tôi đặt chân đến Cali, người đầu tiên tôi liên lạc để hỏi thăm tin tức sinh hoạt văn nghệ của cộng đồng chúng ta ở hải ngoại là nhà thơ Nguyên Sa. Ông có cho tôi biết về sự ưu ái của thính giả dành cho bài Áo Lụa Hà Ðông, cũng như cuốn băng Tình ca Ngô Thụy Miên. Năm sau đó tôi đã rời Cali để lên miền Tây Bắc. Ông vẫn thỉnh thoảng liên lạc bằng điện thoại với tôi, và gửi lên tôi những bài thơ mới viết về sau.

    Trong những tháng ngày đầu ở Cali, mặc dù bận rộn với đời sống mới, tôi vẫn tiếp tục sáng tác. Cùng với Em Còn Nhớ Mùa Xuân, Bản Tình Ca Cho Em, Dốc Mơ… Tôi đã phổ bài thơ "Paris" của Nguyên Sa: Mai tôi đi chắc Paris sẽ buồn, Paris sẽ nhìn theo... với tôi Paris lúc đó chính là Sàigòn, Sàigòn của những nỗi nhớ muộn màng, Sàigòn của những mất mát khôn nguôi. Ý nhạc không tươi trẻ như Tuổi 13, hồn nhạc không dịu dàng như Áo Lụa Hà Ðông. Tôi đã mượn thơ ông để gửi gấm tâm sự mình. Tôi biết khi tôi đi Sàigòn đã buồn, và Sàigòn đã nhìn theo.

    Năm 1981, sau khi về cư ngụ tại thành phố Seattle, trong nỗi nhớ những con đường, những hàng quán thân quen của Sàigòn ngày nào, cùng với ám ảnh thương yêu về Áo Lụa Hà Ðông, về Paris của một thời, tôi đã viết bài Nắng Paris Nắng Sàigòn:

    Tôi đi giữa trời Paris mà nhớ thương Sàigòn
    Nắng Sàigòn hôm nao dìu bước chân em
    Qua phố phường vào quán chợ thân quen...

    Tôi nghĩ đây là một kết hợp đẹp của một phần đời nhạc Ngô Thụy Miên và thơ Nguyên Sa.

    Năm 1986, nhà thơ gọi lên tôi và nói sẽ thực hiện một cuốn cassette gồm một số bản nhạc phổ thơ mới của ông. Tôi gửi xuống ông "Tháng Giêng Và Anh", đã được Hải Lý hát, và sau đó là Vũ Khanh, Ý Lan, Khánh Hà… Ông rất thích bài hát này. Tiếc là bản nhạc đã không được phổ biến rộng rãi như ý ông muốn.

    Ðầu năm 1997, tôi về Cali ra mắt cuốn CD Riêng Một Góc Trời, trong đó có bài "Cần Thiết" phổ từ thơ ông do Thanh Hà hát. Gần đến phút cuối chương trình, tôi được biết có ông đến tham dự. Rất tiếc tôi đã không thể đến gặp ông để chào hỏi, cũng như ngỏ một lời cảm ơn.

    Năm ngoái khi anh chị Duy Trác qua Seattle thăm bạn bè, chúng tôi đã có dịp gặp lại nhau. Anh em hàn huyên tâm sự, và anh tặng tôi một cuốn cassette có chương trình phát thanh giới thiệu chủû đề Thơ Nhạc Nguyên Sa/Ngô Thụy Miên do anh thực hiện tại Houston Texas. Trong chương trình này anh Duy Trác có nhắc lại:

    Thi sĩ Nguyên Sa đã có lần nói rằng bài thơ Áo Lụa Hà Ðông của ông có một số mệnh rất đặc biệt. Khi bài thơ được nhạc sĩ Ngô Thụy Miên phổ thành ca khúc, và ca sĩ Duy Trác trình bày, thì từ đó cái tên Áo Lụa Hà Ðông đã gắn chặt tên tuổi của 3 người, thi sĩ, nhạc sĩ và ca sĩ. Nó đã trở thành một định mệnh. Mặc dù đây không phải là bài thơ hay nhất của Nguyên Sa, cũng như không phải là ca khúc tuyệt tác nhất của Ngô Thụy Miên, cũng như không phải là bài hát mà ca sĩ Duy Trác trình bày thành công nhất.

    Một lần nào đó tôi đã nói "trong nhạc Ngô Thụy Miên, thơ Nguyên Sa có một chỗ đứng rất đặc biệt…" Vâng, trong nhạc tôi ý thơ ông bàng bạc khắp nơi, đâu đó thấp thoáng một chút nắng Sàigòn, một chút lụa Hà Ðông, đâu đó bâng khuâng một chút trời Paris và người yêu rất nhớ… Ðịnh mệnh đã cho tôi được đọc thơ Nguyên Sa, được nghe tiếng hát Duy Trác, được thưởng thức hoà âm của Văn Phụng, để ngày hôm nay, và mãi mãi sau này, dù các anh còn ở đây, hay đã đi rồi, tôi vẫn xin được gửi lời cám ơn chân thành nhất của một người viết nhạc tình ca đến các anh. Xin lần cuối gửi lời cầu chúc nhà thơ một chuyến đi xa về nơi an lành, vĩnh cửu.

    Ngô Thụy Miên
    4/1998



  10. #10
    Diamond Member PhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucket
    Ngày gia nhập
    May 2009
    Bài viết
    8.176
    Thanks
    301
    Thanked 3.169 Times in 588 Posts

    Default Ðề: Tìm hiểu thế giới thi nhân....

    Hai mươi năm ngày mất nhà thơ lớn Chế Lan Viên
    Vũ Quần Phương

    “Mười bẩy tuổi, khi còn ngồi trên ghế nhà trường trung học đã có tập thơ gây sửng sốt cho thi đàn, quả là một thần đồng, tám năm cuối đời lại có sức bút đủ làm thành một sự nghiệp riêng, không thua gì cả đời thơ đã trải, Chế Lan Viên là một tài năng thơ lực lưỡng nhất trong các nhà thơ hiện đại.” Nhưng Chế Lan Viên không chỉ lực lưỡng về sức viết, cái ông lớn ở tầm tư duy thời đại của dân tộc mới thật đáng kể. Có thể hình dung, trong biển thơ mênh mông nước Việt, một mình Chế Lan Viên làm một dòng hải lưu trào dâng cuồn cuộn lan toả. Kỳ lạ là Chế có những bước đi khác hẳn người đương thời: Khi bạn bè ông rên xiết bóng bẩy thì ông khiến người ta kinh hoàng; khi bạn bè ông véo von ngợi ca thì Chế trầm tư ngẫm ngợi, còn khi con em mình vẫn đang hoang mang trước những tung toé thì ông đã dường như ở hẳn cõi khác nhưng từ đó vọng về khúc bi ca bất tận của thân phận làm người. (VanVn.Net)

    Lượng thơ, gộp trong hai tập đầu của bộ Chế Lan Viên toàn tập (gồm 5 tập), chiếm ngót 1400 trang khổ 13,5 x 20,5, trong đó Di cảo mới công bố 3 tập (đã soạn xong tập thứ tư . Chế Lan Viên có thơ bốn câu và cũng có nhiều bài tới nghìn câu khổ rộng. Tập Những bài thơ đánh giặc (Thanh Niên 1972), 78 trang, mà mới chỉ ba bài. Khối lượng đồ sộ, bao gồm nhiều chặng cảm xúc và nhận thức cuộc sống. Đến nay, sau 17 năm ông xa khuất, đã có độ lùi năm tháng, thời cuộc cũng lắm đổi thay, lắm thử thách còn mất của văn chương, bài giới thiệu này muốn một cái nhìn bao quát cả đời thơ ông: đâu là chất thơ vĩnh cửu ngay trong những bài thơ thời sự, đâu là những khác biệt trên từng chặng trong một Chế Lan Viên thống nhất...

    Điêu tàn, 36 bài và sau Điêu tàn, 34 bài nữa, coi chung là những thi phẩm trước cách mạng của ông. Chủ đề Điêu tàn được nhiều người xác định là tiếng than khóc cho một đất nước đã tiêu vong. Đúng thể, nhưng chưa đủ. Bởi ngay trong đề tài Chàm này, mà đề tài Chàm mới chỉ chiếm một phần Điêu tàn, thì cảm hứng thơ Chế Lan Viên đâu chỉ khuôn trong nỗi buồn vong quốc của dân Chàm, đâu chỉ là nỗi nuối tíêc khung cảnh huy hoàng nước non Hời trong dĩ vãng. Ngoài Những cô thôn vàng nhuộm bóng chiều tươi với Những chiến thuyền nằm mơ trên sông lặng / Bầy voi thiêng trầm mặc dạo bên thành và Những Chiêm nữ nhẹ nhàng quay lại ấp / Áo hồng nâu phủ phất xoã lời vui... Còn gì nữa chứ. Còn, ấy là:

    Sọ dừa ơi hãy nghe ta truyền phán
    Hãy ngả nghiêng lăn lộn, hãy kêu gào
    Hãy rít lên những điệu xương vỡ rạn
    Hãy buông ra những tiếng máu sôi trào

    Còn:

    Rồi lấy ra một khớp xương rợn trắng
    Nút bao giòng huyết đẫm khí tanh hôi
    Tìm những “miếng trần gian” trong tuỷ cạn,

    Nhà thơ trẻ lãng mạn Chế Lan Viên muốn gì trong cõi yêu tinh kinh dị u uất ấy?

    Hãy về đây, về bên ta mi hỡi
    Đem cho ta những phút rỡn kinh hồn
    Những phút mộng điên cuồng, mơ dữ dội

    Ông muốn tìm giải thoát trong cõi yêu ma. Chán sắc màu thật của trần gian nên thích hồn phách say sưa trong giả dối(...) Cho lăn lóc hồn mê trong Ảo Huyễn. Tự tạo ra ảo huyễn. Nước Chàm xưa chỉ là một (trong nhiều) ảo huyễn được gợi nên từ bóng dáng đổ nát những tháp Chàm ngày đêm in bóng trên nền trời Bình Định, trên không gian tuổi thơ của tác giả. Đây là chỗ giao thoa của hồn thơ Chế Lan Viên và Hàn Mặc Tử. Hàn Mặc Tử ảo huyễn trong cõi điên, xáo trộn yêu ma với Thiên Chúa, với Thánh Thần. Chế Lan Viên tìm vào cõi âm, hồn thơ lảng vảng tìm thi hứng từ những tha ma, huyệt mộ, đầu lâu, xương tàn, máu, não ... Không gian là trăng mờ, bóng tối, đêm đen. Nhân vật là Các cô hồn lặng ngắm cõi hư vô. Đến tiếng mõ lốc cốc của trần gian, ông cũng thấy Tựa đầu lâu reo dưới khớp xương tàn Trong thơ cổ điến nhiều nhà thơ cũng đã nói tới cõi âm. Nguyễn Du trong Văn Chiêu hồn cũng đã phục hiện bóng dáng những cô hồn Lôi thôi bồng trẻ dắt già. Nhưng không dựng các chi tiết đặc tả xác chết, hồn ma ghê rợn, tiếng xương kêu, máu thét kinh hoàng. Mạch cảm xúc này cha ông ta ít khi khai thác, nó không có trong truyền thống. Phương Tây thì nhiều, rõ và gần nhất là Beaudelaire. Niềm kinh dị (chữ của Hoài Thanh) do Chế Lan Viên gây nên xuất phát từ đây. Nhưng, theo tôi, sức thu hút của Điêu tàn không chỉ ở kinh dị với ma khóc quỷ hờn, đầu lâu la hét...trong cõi âm mờ tối, mà nhiều hơn lại ở sự mê đắm. Mê đắm vẻ đẹp rất nhiều ánh sáng kỳ ảo của trần gian thanh thiên bạch nhật. Thiên nhiên tươi sáng, son trẻ, nghịch ngợm, đa tình.

    Cảnh xuân:

    Hàng dừa cao say xưa ôm bóng ngủ
    Vài quả xanh khảm bạc hớ hênh phô
    Xoan vươn cành khều mặt trời rực rỡ
    Bên bóng râm lơi lả nhẹ nhàng đu

    Cảnh thu:

    Mặt trời nở trong ô cây thếp bạc
    Trên ngàn xanh nhí nhảnh ánh vàng lay
    Muôn chim non cùng ngây thơ ca hát
    Lũ bướm vàng quên lạnh thẩn thơ bay

    Đây cũng là khí quyển quen thuộc của phong trào Thơ Mới. Trong tâm lý tiếp nhận cảnh sắc ấy có lòng yêu đời say đắm, say đắm mà thành lãng mạn mà tạo thần tiên cho cõi trần. Đây lại là chỗ giao thoa của Chế Lan Viên với Xuân Diệu và cả với Thế Lữ (Thế Lữ tạo thần tiên hơi quá tay nên có hao hụt thi vị trần tục). Hồn người thơ ở đây trong trẻo quá, cách xa lắm với khí đêm u uất cõi ma trong các bài thơ khóc dân Hời. Cảnh xuân: tả cây, tả quả, tả cành, tất cả đều nhân cách hoá, đây say sưa ôm bóng ngủ, kia hớ hênh phô, hoặc khều nghịch ngợm. Tinh, hóm, sống động. Nhưng thần tiên nhất là cái bóng râm, không sống chết, nhưng lại đa tình hơn cả, lơi lả nhẹ nhàng đu. Cảnh thu có cây, chim non, bướm vàng sinh động nhưng chưa kỳ ảo bằng cái ánh vàng, nó nhí nhảnh lay. Những nét ảo chấm phá điểm xuyết ấy làm cảnh thực lung linh hơn chính nó. Một chút như vô tình buột ra thế thôi nhưng đấy là dấu hiệu của tài năng, không dễ có. Giai đoạn sau Điêu tàn , bút pháp ảo trần gian trong trẻo này được vận dụng nhiều. Bài thơ Trưa đơn giản là thành công tiêu biểu cho khuynh hướng này. Những không gian trưa trưa quanh vườn, trưa quanh gốc, trưa lên trời, trưa lạc vào lăng tẩm, trưa bước xuống những sân ga... các trưa điển hình của hiện thực nhưng được thu nhận bằng cái nhìn ảo. Thực ảo lẫn vào nhau, tạo một cảm xúc chập chờn nửa vào cõi lạ nửa trong cõi đời. Câu thơ mê đi làm tỉnh thức rất nhiều cảm giác, ý thức thành mơ hồ, tài tình lắm:

    Trưa, theo tàu bước xuống những sân ga
    Dựng buồn lên xa gửi đến Muôn Xa
    Đây trưa hiện hình trong căn trường nhỏ
    Đưa tay thoa những hàng kính vỡ

    Đây là một chặng phát triển cảm xúc Chế Lan Viên sau giai đoạn kinh dị. Đôi lúc ông tạt qua bút pháp ấn tượng, tạo nét siêu thực chừng mực, đủ sức gợi. Ý nghĩa câu thơ lùi lại phía sau nhường cho cảm giác hình thành:

    Thâm khuê ý thức chong đèn lạnh
    Mặt nguyệt tâm tư tròn vẹn gương
    Chiếc én thành son chưa đẫy cánh
    Nét đau xanh liễu chửa buông tường

    Chế Lan Viên không phát triển bút pháp này. Hướng ấy là sở trường của Nguyễn Xuân Sanh, nhưng bài thơ Lại thấy thời gian này ( viết khoảng 1937-1946) là một bài thành công, cho thấy biên độ cảm hứng của Chế Lan Viên khá rộng.

    Cách mạng tháng tám thành công, đất nước bước vào chặng lịch sử mới, Chế Lan Viên cũng như hầu hết các nhà thơ lãng mạn của phong trào Thơ Mới cũng vào chặng sáng tác mới: tự nguyện biến thơ mình thành công cụ vận động đồng bào đánh giặc cứu nước. Nhà thơ lãng mạn nổi tiếng trở thành cây bút hiện thực dò tìm những bước đi đầu tiên. Nhiều trồi trụt và ấu trĩ. Nhưng hôm nay, sau hơn nửa thế kỷ với biết bao biến động của đường lối văn nghệ, đọc lại không thể không khâm phục ý chí vì đại nghĩa của lớp nhà thơ “tiền chiến” ấy. Tập thơ bao trùm giai đoạn sáng tác chín năm kháng chiến Gửi các anh là một tập thơ mỏng, ướm thử nhiều thủ pháp, cốt sao tải được hiện thực cuộc sống lẫn ý tưởng tác giả khi ấy. Khó có thể coi bài nào là hoàn chỉnh, nhưng lại hé cho thấy những khuynh hướng mới, sau này sẽ phát triển rõ trong Ánh sáng và Phù sa. Lối viết chính luận tung hoành trong các câu thơ rộng khổ ở các bài Cành phong lan bể, Tàu đến , Tàu đi đã được báo hiệu từ những thể nghiệm của bài Chào mừng ( viết năm 1950). Cũng như vậy, Đi ra ngoại ô thoát thai từ Trường Sơn. Và Kết nạp Đảng trên quê mẹ từ Đưa con ra trận. Điều đó chứng tỏ hướng tìm của Chế Lan Viên những năm kháng chiến chống Pháp là có ý nghĩa. Chúng ta hiểu thêm: ngay ở những nhà thơ tài năng, để chín trong một khuynh hướng sáng tác mới cần một lao động thơ bền bỉ hàng thập niên. So với thơ viết trước cách mạng, Gửi các anh ham ôm chứa hiện thực, đôi lúc thơ làm nhiệm vụ ký sự, đôi lúc thơ thuyết minh bình luận sự kiện quá đầy đủ và khô khan, nhưng có một bước phát triển bạn đọc cần ghi nhận là chính từ tập thơ này Chế Lan Viên bộc lộ khuynh hướng nâng cao phẩm chất trí tuệ cho thơ. Khuynh hướng này về sau thành một đặc sắc của Chế Lan Viên. Tư duy sắc sảo, huy động hình ảnh tạo nên những cặp phạm trù, những mạch nghĩ lôgic, đó là những công cụ mới thể hiện cảm hứng người viết và dẫn dụ cảm xúc người đọc. Hình ảnh khi tương phản: Việt Nam những ngày nguyên tử vẫn xông lên hàng đầu với gậy tầm vông, khi cộng hưởng, trùng điệp: Những thành phố lớn cưu mang trong lòng, những nhà máy lớn / Nhưng lớn lao thay là những người đã thắng được máy móc và để lại tên cho phố phường. Bản thân nó chưa thơ (suy tưởng lấn hình tượng) nhưng nó dẫn đến những nhận thức mới mẻ, bất ngờ.Đến thời Ánh sáng và phù sa, khi hình tượng thơ hoàn chỉnh, nó thành những câu thơ đúc kết chân lý:

    Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
    Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn

    Càng về sau hứng thú khi đọc thơ Chế Lan Viên càng thiên về hứng thú trí tuệ. Và từ trí tuệ mà nảy sinh tình cảm ở một chiều sâu mới. Bài thơ dựng lại con đường Hồ Chí Minh tìm đường cứu nước mang cái tên dài Người đi tìm hình của nước. Bản thân cái tên ấy là một câu thơ hàm súc. Hình tượng thơ nằm trong hình ảnh đi tìm hình của nước, nghĩa là tìm dạng thức tồn tại cho đất nước (Độc lập hay Liên hiệp? Cộng hoà hay Quân chủ?...). Cách nói ấy mang tính trí tuệ và trở thành tứ của bài thơ. Bài thơ kết thúc khi cái hình nướchiện ra, trong hòn đất Pac Bó được Bác Hồ nâng trên tay ngày trở về:

    Kìa bóng Bác đang hôn lên hòn đất

    Trong màu hồng hình đất nước phôi thai

    Ánh sáng và Phù sa xuất hiện năm 1960, trong mùa chín của các nhà thơ cách mạng đi từ phong trào Thơ Mới lãng mạn với các thi phẩm của Xuân Diệu (Riêng chung) Huy Cận (Trời mỗi ngày lại sáng) Tế Hanh (Gửi Miền Bắc) Lưu Trọng Lư (Toả sáng đôi bờ)...tạo một không khí sầm uất cho thơ, trong chừng mừng nào đã bộc lộ được mặt mạnh của khuynh hướng mở rộng cánh tay thơ ôm chứa lấy cuộc đời. Phẩm chất trữ tình mới và cả bút pháp thể hiện mới của Ánh sáng và Phù sa như một cú hích cho cả nền thơ Miền Bắc hồi ấy. Nhiều cây bút trẻ bị phong cách Chế Lan Viên thu hút. Từ đó cho đến khi mất, Chế Lan Viên đều đặn cho xuất bản Hoa ngày thường – chim báo bão (1967) Những bài thơ đánh giặc (1972) Đối thoại mới (1973) Hoa trước lăng Người (1977) Hái theo mùa (1977) Hoa trên đá (1984). Các tập thơ vận động trên cùng một trục thi pháp Chế Lan Viên, nhưng mỗi tập là một phát triển dung lượng chất chứa hiện thực: chuyện đánh giặc, chuyện đời thường.

    Thơ đánh giặc của Chế Lan Viên là thơ bình luận, tranh luận về phẩm chất anh hùng của cuộc chiến đấu, về lý tưởng cao cả và đức hy sinh to lớn của dân ta. Có thể nói trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, thơ Chế Lan Viên đã thành chỗ tựa tâm hồn cho người đánh giặc. Còn nhớ, những ngày đầu Miền Bắc chống không lực Hoa Kỳ ngay từ 5-8-1964, tin chiến sự như vang cùng thơ Chế Lan Viên, làm phấn chấn và thôi thúc lòng người. Tên sông tên núi gọi lên khi ấy thấm thía, xao xuyến biết bao nhiêu:

    Hãy yêu! Hãy yêu! Hãy yêu và bảo vệ
    Mây nước, cửa nhà, văn học, ngữ ngôn
    Một đảo vắng Hồn Ngư còn chớp bể
    Một rặng núi Kỳ Sơn từng lắm lúc mưa nguồn

    Tình cảm nhà thơ cộng hưởng với tình cảm toàn dân yêu đất nước. Suốt mười năm từ 1965 đến 1975, Chế Lan Viên đồng hành cảm xúc mình với cuộc chiến đấu thống nhất đất nước. Thơ ông vào trận, khi hào sảng âm vang như văn Hịch tướng sĩ thời Trần: Tổ Quốc bao giờ đẹp thế này chăng (1965) Con mắt Bạch Đằng, con mắt Đống đa (1966), Suy nghĩ (1966)... Khi bừng bừng căm giận, sôi sục anh hùng ca:

    Hãy may lấy cờ ta trong giận dữ
    Những lá cờ to gấp triệu núi sông ta
    Dẫu muốn sống không thể quỳ để sống
    Hái hoà bình xin hái giữa phong ba.

    khi lại mảnh mai thăm thẳm như cái nỗi nhớ mơ hồ một địa danh nhỏ nhoi bên kia vĩ tuyến, cái thành phố Sông Cầu, :

    Một trưa bình thường mắt không ngó tới

    Một đất bình thường xe ta qua mau
    Trả thù ta
    Bắt lòng ta nhớ mãi
    Sông Cầu ơi, sông Cầu...

    Ngày toàn thắng 30-4-1975, Chế Lan Viên công bố bài thơ dài Ngày vĩ đại, viết 3-5-1975, in tràn một trang nhật báo khổ to. Giọng thơ ào ạt như thuở nào Đại cáo Bình Ngô trúc chẻ ngói tan, thần tốc thắng giặc, những thương nhớ đau đớn âm thầm nén lại bấy nhiêu năm cắt chia, bom đạn như được ào ra trang giấy cười, khóc, xót thương, hả hê, hào hứng ...Vậy mà chưa đã, Núi sông lành chỗ cắt vẫn còn đau, hai tuần sau đó, vẫn thể thơ ấy, một bài dài gần gấp đôi xuất hiện, sâu lắng thâm trầm hơn, cảm nhận trở lại những gì dân ta, cả phía bên này lẫn phía bên kia, đã cắn răng chịu đựng Đau sông nước muôn phương thân vạc thân cò. Dung lượng bài thơ đủ cho tác giả bình luận mọi lĩnh vực. Chỗ tình cảm đằm thắm, có chỗ lại lý sự, tranh luận. Cái thế tranh luận của người chiến thắng, bút pháp tung hứng nhưng cũng rất dễ tự say lời.

    Thơ đời thường, trong đó có thơ tình yêu, ở Chế Lan Viên rất phong phú. Cũng để dễ nói thì chia ra như thế. Thực tế, đánh giặc đã là chuyện đời thường rồi, đề tài nọ vốn lồng vào đề tài kia . Xếp hàng mua gạo, mua vải hẳn phải là chuyện thường ngày, nhưng cũng là chuyện đánh giặc, là tư thế đánh giặc;

    Một triệu quân giặc rối bời như canh hẹ
    Ở đây ta xếp hàng

    Chế Lan Viên nắm bắt rất nhanh những chủ đề thơ của các sự kiện, các hiện tượng, thậm chí của một nét tâm lý thoáng qua. Bài thơ nào cũng như một chiêm nghiệm xử thế, sức khái quát sâu, mà cảm động:

    Lòng rất là vô lý
    Mừng hoa sữa vào thu
    Lại tiếc hè qua vội
    Chưa kịp hái sen hồ

    Lòng người “tham” là vậy. Ta trải qua mà không để ý. Với Chế Lan Viên, nó đọng lại, nó khuyên ta được những điều xa hơn, rộng hơn chính nó. Có bài, do kiểu tư duy thơ của Chế làm hiện thực bật ra tình huống thơ. Tiếng chim ở Vĩnh Linh sau ngày Mỹ ngừng bom, ngoại cảnh chỉ có thế, nhưng nội tâm nhà thơ đi qua gian lao của chiến tranh, đã tạo nên tình thế xúc động thơ:

    Bốn năm đạn lửa chim bay hết
    Nay tiếng bom im cánh biếc về
    Tiếng hót đầu tiên, ơ lạ lắm!
    Cả làng rưng lệ đứng im nghe

    Câu cuối là của lòng nhà thơ tạo thêm cho hiện thực. Chế Lan Viên ngay cả những bài thơ phục vụ kịp thời cũng không có câu thơ non lép. Ông kỹ càng câu chữ. Gần như bài nào cũng có yếu tố sáng tạo. Người ta yêu tứ thơ của ông, và yêu cả ngôn ngữ, đặc biệt âm điệu câu thơ. Tiếng chim cu gù sau ngày đình chiến cũng trùng xương cốt chủ đề với chim biếc Vĩnh Linh, nhưng phập phồng da thịt cuộc sống xa, gần, xưa, nay. Âm điệu ngắn dài đứt nối vắt qua các câu thơ, như liền lại như đứt, mô phỏng tiếng chim cu gáy những trưa quê rất khêu gợi:

    Hồn đất nước bâng khuâng theo tiếng chim dân dã
    Như chửa nghe bao giờ. Mà như đã
    Nghe rồi. Tự đâu thời xa xửa xa xưa.

    Hai vế đề tài Hoa ngày thường và chim báo bão trong thơ kháng chiến chống Mỹ và mươi năm sau đó của Chế Lan Viên luôn luôn phát triến song hành. Biên độ cảm xúc rộng, bút pháp biến hoá, có lúc kết hợp cả trào phúng.

    Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến luỹ.

    Hình ảnh ấy, trước hết, hợp với chính Chế Lan Viên. Không chỉ vì thơ ông có mặt kịp thời trong những khoảnh khắc thử thách ngặt nghèo của cuộc chiến mà còn ở tầm vóc và tư thế cảm xúc. Ông là người chủ lực trong cả nền thơ, tạo nên mạch trữ tình lịch sử, trữ tình của những sự kiện lớn. Cảm xúc choán những biên độ rất rộng Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào Cửa Bắc đến Văn Chiêu hồn từng thấm giọt mưa rơi. một đầu là lịch sử, đầu kia đã là thân phận con người. Cả hai hình ảnh đều rất gợi cảm, gợi nghĩ ngợi. Nhiều nhà nghiên cứu gọi Chế Lan Viên là nhà thơ trí tuệ ( dù ông không thích, nó như anh đeo kính gọng vàng! ) có lẽ là do đặc tính ôm trùm rộng xa và uyên bác này.

    Kinh nghiệm một nhà thơ lớn cho ông biết cái cách chuyển thơ trên đại lộ rất dễ thiếu đi sắc hoa hương cỏ của những lối mòn quanh quất, nhỏ mà rất thơ. Hướng Hoa ngày thường luôn được ông để tâm khai thác. Chế Lan Viên tận dụng tứ tuyệt để viết ngay, viết gọn những thoáng gặp thơ hồn nhiên, không để cái thói quen “tư tưởng hoá” kịp ập vào

    Quên mất mình vừa sáu chục
    Mở trang giấy rộng viết dài
    Gương nhắc mái đầu chớm bạc
    Lại làm có bốn câu thôi

    Ông nhớ căn phòng ở sứ Việt nước người trong mấy đêm tá túc cũng như từng chợt nhớ: nhớ nhà cha mẹ, cảnh trường xưa...Những cái nhớ không đâu, những cái buồn không định... ông đều đánh dấu vào thơ. Có khi nghĩa thơ chưa sâu nhưng nghĩa đời lại nặng, những câu thơ nhỏ cho thấy đời một nhà thơ lớn:

    Còng lưng tưới nước , vạt rau khô
    Bơm hỏng mà đâm khổ cả nhà
    Đêm ngủ chỉ lo toàn vật giá
    Xa dần truyện ngắn, bớt dần thơ

    Xa dần truyện ngắn là bà Vũ Thị Thường, vợ ông, bớt dần thơ là ông muốn diễu mình. Dọn vào thành phố Hồ Chí Minh, ông không xin nhà, tự bỏ tiền mua một căn nhỏ trong hẻm. Ít lâu sau, bán đi , mua một căn có vườn, tít ngoài Tân Bình. Nhà một tầng, cây ăn quả xung quanh. Ông thích lắm, đặt tên chữ Hán cho sang Viên tĩnh viên. Nhưng đất phèn, cây không lên được. Cái ý định tự trồng lấy rau mà ăn xem ra cũng không dễ. Bài thơ trên viết năm 1985, cuộc sống vật chất toàn dân đều khó. Tôi đến thăm, ông mặc bộ bà ba nâu, đi chân đất, dẫn đi thăm cây, nói về đất phèn và giảng Nam Hoa Kinh. Năm (1986), Khi nhà xuất bản Văn Học phát hành Tuyển tập Thơ Chế Lan Viên 400 trang, ông hào hứng viết thư: thế là mình xây xong mộ cho mình rồi. Bây giờ còn ngày nào, mình nằm gác chân lên cửa sổ nhà mình, muốn viết gì thì viết. Lắng nghe trong câu nói tếu táo ấy, một mong muốn thầm lặng của ông, hình như ông còn nhiều thứ phải đợi xong nghĩa vụ với đời mới viết cho mình. Hôm đọc trên báo bài Cờ lau Đinh Bộ Lĩnh (1988), qua tâm sự ông vua, đã thoáng thấytâm sự ông nhà thơ:

    Đã lâu ta không nghe hồn lau gọi nữa
    Xa tiếng gió xạc xào ?
    Xa mùi bùn, mùi trâu, rơm rạ ?
    Chỉ nghe danh vọng ầm ào ? Vinh quang xí xố.

    Câu cuối cùng ở bài thơ ấy, khi ông vua Đinh kêu lên: Hồn ta ở đâu?. Ta nghe thấy khát khao của nhà thơ Chế:

    anh ấy Điêu Tàn, anh ấy Phù Sa
    anh ấy đọc hồn trời, hồn đất
    câu cuối cùng hỏi đâu hồn ta
    (thơ Vũ Quần Phương, trang45,

    Vết thời gian, Văn học-1996)

    (còn tiếp)
    Last edited by phale; 07-08-2009 at 01:54 PM.

Trang 1 / 2 12 LastLast

Chủ đề tương tự

  1. Thác Giang Điền
    By travelvietnam in forum Du Lịch Đó Đây
    Trả lời: 0
    Bài cuối: 08-04-2011, 11:26 AM
  2. Núi non Hà Giang
    By Quỳnh_muộn in forum Du Lịch Đó Đây
    Trả lời: 2
    Bài cuối: 03-12-2009, 05:43 PM
  3. Pha Lê làm người đẹp giang hồ
    By TeacherABC in forum Tin tức - Đời sống Điện ảnh
    Trả lời: 0
    Bài cuối: 24-09-2009, 08:57 AM
  4. Lưu Hương Giang - Vol.1
    By Đôi Mắt Mùa Đông in forum Links Download Nhạc Việt
    Trả lời: 0
    Bài cuối: 28-07-2009, 11:39 AM
  5. Thành phố mưa bay - Bằng Giang
    By Nguyên Thoại in forum T
    Trả lời: 1
    Bài cuối: 18-06-2009, 10:21 AM

Posting Permissions

  • Bạn không thể tạo chủ đề mới
  • Bạn không thể trả lời
  • Bạn không thể dùng tập tin đính kèm
  • Bạn không thể hiệu chỉnh bài
  •