Hai mươi năm ngày mất nhà thơ lớn Chế Lan Viên
Vũ Quần Phương

Trong tập Hoa trên đá (1984), Chế Lan Viên cũng đã quay lại với giọng nhỏ trữ tình riêng tư, như hồi nào ông viết Ánh sáng và Phù sa. Tập trước, 1960, đánh dấu sự chuyển hướng thành công, từ chân trời một người đến chân trời mọi người. Tập sau, một phần tư thế kỷ đi qua, là sự kết tinh một đời thơ, thu ngoại giới vào hồn mình, thành hồn mình. Hoa trên đá là một mốc chuyển đáng lưu ý của Chế Lan Viên. Chủ thể cá nhân bộc lộ khá nhiều mà không cá nhân chủ nghĩa:

Đời ngoài tuổi năm mươi
Mong gì hương sắc lạ
Mọc chùm hoa trên đá
Mùa xuân đâu chịu lùi

Nông nỗi cá nhân, mà buồn nữa. Tình thế buồn nhưng người không cam phận.

Chả bề nào khuây được bể đâu
Trừ ra bể sâu hơn bể nữa
Bể gây những cuồng phong bão tố
Cũng để quên mình lỡ đã thẳm sâu

Bi kịch nhưng cũng là cái giá phải trả cho sự biết, nhất là để biết mình. Rất nhiều bài thơ như tự vấn trở lại những cái ngỡ như đã biết, thậm chí, đã giảng cho người khác: lẽ nào, chẳng lẽ, ngỡ như...Một nhà thơ nổi tiếng là thông minh, uyên bác và hùng biện như sông Hồng sông Mã, gầm reo trong đạn lửa, lúc cao niên lại muốn im lặng mà lắng nghe tiếng thì thầm của con sông Thương nước mắt sông nhớ thương ai mà nước chảy đôi dòng. Thơ cảm động ở nỗi sâu nặng tình đời, như khi nghe cô gái xênh tiền:

Chỉ là nhịp gõ ấy sao mà
Em xoay tà áo thì ta khóc
Khi thoảng ngang lòng tiếng í a

Tâm hồn nhà thơ như yếu đuối hơn, ông nài nĩ với cuộc đòi:

Nghe hết câu chèo đã, được không
Vội gì trăm núi với ngàn sông
Lặng đi một phút cho câu hát
Cùng với mầu mây thấm tận lòng

Cũng đề tài chiến tranh, sau rất nhiều bài thơ tung hoành như cáo, như hịch, như anh hùng ca giúp người đứng vững giữa đạn bom mà đánh giặc. Nay đất nước yên hàn, lòng ông lắng lại, cân lại những hy sinh Những giọt lệ khô rồi bây giờ lại nhỏ. Ông sống lại nỗi lòng người vợ đợi chồng: Đêm đối diện với ngọn đèn hạt đỗ. Ông xót xa trong đêm hò dấu nỗi đau từ tạ:

Anh cúi mặt bên đèn khêu lại bấc
Nước mắt nhỏ sau câu hò, em lấy tay che

Ông không dấu vị đắng của lòng mình khi trở về quê cũ An Nhơn sau chiến tranh, sau thời chia cắt Chẳng lẽ thăm quê lại hỏi người. Có câu thơ thật thà như câu nói mà trong hồn vía nó có chiêm nghiệm của cả đời người:

Ở đâu đong hạnh phúc chén đầy, đây chỉ chén vơi
Một hạt tấm con no suốt một đời

Bao nhiêu nỗi buồn của con người thời thơ tránh né, tránh né để lòng yên mà đánh giặc, Chế Lan Viên tự tin mà nhặt lại. Ngay nỗi buồn của lòng ông, kể cả cái tình thế cùng đường bị thời gian dồn đuổi Anh như ông vua Thục / Bị đưổi khỏi thời gian ông cũng không che dấu. Đó cũng là sự tự tin của cả nền thơ. Nỗi xúc động làm bừng tỉnh giữa cơn say ở làng Hung hay vị cay nhoè mắt khói củi sồi năm sơ tán làng quê ngoài Bắc, cỏ xanh ở Tháp Rùa hay lau trắng nơi biên giới...là những cảm xúc đã nâng thành trí tuệ, một cốt cách cổ điển mới của thơ hiện đại..

Sau khi ông tạ thế, liên tiếp ba tập di cảo được xuất bản (1992, 1993, 1996), bạn đọc sửng sốt và vui mừng: một Chế Lan Viên khác, thực hơn, bạo hơn, gọn hơn, chắc hơn. Do vậy, mới hơn, trẻ hơn và rất lý thú là không hề cắt rời với thi pháp độc đáo Chế Lan Viên. Di cảo là những bài lúc sống, ông chưa đưa in. Chưa đưa in có lẽ vì ngần ngại năng lực tiếp thu của xã hội lúc đó.

Ông quan niệm lại nhiều thứ. Nghệ thuật là ước lệ. Thực quá có là nghệ thuật không. Dễ mất thi vị lắm nếu cứ thẳng thừng gọi đúng tên mọi vật

Để khỏi nhớ ơn, người ta bày ra chữ cám ơn
Cám ơn, một lần, hai lần, thôi thế là rảnh nợ

Bạo để được thực, nhưng bạo cũng lắm cái phiền. Thực ngay trong sự nhìn lại mình, vẽ ra chính mặt mình có khi lại bị chê là giả, vì người đời đã quen khuôn mặt giả mất rồi. Chế Lan Viên viết như bổ xung, như đính chính những điều đã viết. Nhiều cách nghĩ ta thấy lạ. Lạ với ông. Lạ cả với nền thơ. Nghĩ thế nào về đời, về thơ mà dẫn đến cách đánh giá chính mình như thế này:

Ôi! Con đường không ra đường của kẻ tìm thơ
Cái thơ không ra thơ của kẻ tìm đường

Ông như tách khỏi mình mà khảo sát chính mình, ở cái chỗ người ta tưởng ông đắc ý lại là chỗ ông đã xót thương :

Khi tôi cưỡi trên mây
Thì máu người rên trên đất
Mẹ hỏi tôi
Con lên cao mà làm chi
Mẹ ở dưới này cơ cực
Về đi!

Có người nghĩ Di cảo là thơ sám hối của Chế Lan Viên. Tôi không thấy thế. Di cảo chỉ là sự bổ xung. Chỉ nói nốt những điều trước kia tự ông dừng lại. Dừng lại không nói, chứ không phải không có nó trong lòng. Di cảo đi xa hơn nhưng vẫn trong hướng tìm của nhà thơ. Ông từng có bài thơ nói người tù Côn Đảo ban ngày trần mình ra chịu đòn thù đánh vào hồn vào xác, nhưng đêm về thì lấy trăng sao, hương gió mà nạp năng lượng cho trận chiến ngày mai. Bây giờ thấy ông còn có thêm đoạn ba này: là nói thế thôi, chứ đêm kẻ thù cũng chẳng để anh yên, cái cuộc đời ở đây phút giây nào chẳng phải căng ra mà chịu trận. Chế Lan Viên ở giai đoạn này, gắng nói gọn, nói hết những điều ông đã thấy, đã nghĩ, đã ngập ngừng. Quen tư duy bằng hình tượng, mọi điều nghĩ đã thành thơ phác thảo. Lúc này ông tước mọi uốn éo tài hoa mà thơ vốn có để nói bộp vào thực chất. Bài thơ ngắn đi, nhưng nghĩ ngợi nhiều, chìm sâu vào chiêm nghiệm.

Chiêm nghiệm cái đời người.
Chiêm nghiệm thơ.
Chiêm nghiệm xã hội, chính trị, vua quan, các thứ chủ nghĩa...

Thi pháp Di Cảo hiện đại hơn chính vì nó trình bày chất thơ để mộc từ trong lõi. Ông nói: các người đẹp, các vĩ nhân, các thi sĩ thiên tài thì tât cả đều có con nhặng xanh đón đợi. Ngay khi anh đang thơm tho với tuổi tên danh vọng, con nhặng xanh đã nhận ra cái mùi chung cục của anh rồi. Tốt cho anh là anh cũng phải nhìn ra nó sớm. Không phải chỉ tới những ngày trọng bệnh , mà thỉnh thoàng trong đời, ông lại ngẫm nghĩ về sự sống, về cái đời người:

Ừ anh là sông trôi, là hạt móc
Là tiếng khóc thất thanh. Nhưng anh lại
Là người. Việc gì phải tủi .

Không tủi mà còn thích thú nữa. Nhìn lại, có lúc ông tự trách:

Được làm người khoái thế
Vậy mà anh để hồn buồn và trán luôn cau.

Ông đi thăm lò hoả táng, quan sát nó vận hành. Nghĩ đến chung cục đời người thấy nó ghê ghê. Nhưng ngẫm lại, đó cũng là công việc của đời thường, chuyên cần nhịp nhàng:

Sáng đưa xác vào, trưa lấy xương ra
Đều đặn như bánh vào lò
Mỗi ngày hai suất
Việc phải đến thì nó đến. Ông đã từng băn khuăn

Ta đã nghĩ ra cái đẻ không đau
Nhưng cái chết không đau thì chưa nghĩ tới.

Rồi lại tự nhủ: mà nghĩ cũng chả để làm gì. Nào triết nào văn, nghe mãi nhức đầu. Trước cái cuộc hành trình nhẩn nha mà rất gấp của đời ấy, tốt nhất:

Ta đạp lên siêu hình và bớt nghĩ về ta
Thế là yên chuyện

Căng mình chống chọi với trời đông, ngạo nghễ như cây thông cũng chỉ là một cách mà cứ mềm mại buông mình xào xạc với gió thu như cây lau lại là một cách khác, không phải không hay. Ông lại nói, như một đấu tranh giai cấp tính: lên voi thì xuống chó, nhưng lên mới đến chó thì xuống đến đâu. Kiểu lập tứ ấy giống như một lối chơi tu từ, nhưng ngẫm kĩ nó là chuyện đời bây giờ đấy chứ. Chua chát! Ừ thì chua chát, đời mà, mấy khi ngọt. Người ta nói dối nhiều nên vu cho chú Cuội tội nói dối mà phê phán để trốn được tội mình đi.

Nói dối gì, Cuội thật biết bao nhiêu
Thế hệ nào đến cũng gặp mày nguyên tại chỗ
Chỉ kẻ nhìn lên trăng thì nói dối đủ điều

Lúc là chú bé con , hét một tiếng trong Văn Miếu, nghe tiếng vang mà sợ, chạy. Lớn lên, nói trên Đài, hét trong sách lại thích thú chờ tiếng vang dội lại, có khi còn chạy đuổi theo. Nay cuối đời thèm yên tĩnh, nhìn xuống huyệt mình lại thấy có tiếng vang(!). Chế Lan Viên ưa nghĩ ngợi, thích phát hiện những ý tưởng thâm trầm ở những sự việc đã quá quen mòn, không ai còn để ý. Nhìn cái lá sen ngoài hồ lật theo chiếu gió, liên hệ với tâm trạng mình, ông cho nó một ý nghĩa triết học:

Phía bên này lá sen là cuộc đời quá cũ
Danh vọng, giấy tờ, bàn tủ
Hoan hô và chửi rủa
Thế mà lật lá sen hồ, bỗng chốc phía bên kia
Bỗng chốc là mùi hương ở bên kia lá
Là ánh trăng ở trong tiếng gió
Là thì thầm ánh sao khuya
Trong cỏ...
Gọi anh đi

Ông tự hỏi: ông đã viết câu thơ cổ vũ hai nghìn người đêm ấy ra trận, chỉ ba mươi người về:

Một trong ba mươi người kia ở mặt trận về sau mười năm
Ngồi quán bên đường nuôi đàn con nhỏ
Quán treo huân chương đầy, mọi cỡ
Chả huân chương nào nuôi được người lính cũ!
Người lính cần một câu thơ giải đáp về đời
Tôi ú ớ
Người ấy nhắc những câu thơ tôi làm người ấy xung phong
Mà tôi xấu hổ

Con người thông minh và giàu lãng mạn, thuở đầu đời phóng ra xa tới siêu thực, cuối đời rút vào cốt lõi hiện thực, gạt đi mọi trang trí để lần ra thực chất đời người.

Thực chất cái goi là sự “bất tử”:
Có nhà thơ để lại bộ lông vằn tên tuổi
Các thế hệ sau đến độn vào đấy rơm và danh vọng
Thậm chí thêm cho con vật chết khô
Cả một tiếng gầm.

Thực chất cái chết, nó đã alô cho ông rồi, sỗ sàng, thẳng thừng. Thì nó sợ ai:

A lô! Nói gì nói nhanh lên
(...) Và nhìn gì thì nhìn đi
Không ai bịt mắt
Mà cũng đừng nhắm mắt
Nói lên vắn tắt
Rồi đi

Nhưng thực chất thơ. Ông nói tới đủ điều, ví với nhiều công việc. Mà vẫn như chưa vào thực chất thơ. Ông là nhà thơ nghiền ngẫm về chuyện làm thơ nhiều nhất. Những bài nói về nghề bằng văn xuôi, những chương nghĩ về thơ bằng thơ sâu sắc, tài tình. Giờ đây, thời gian kíp lắm rồi, ông vẫn lật đi lật lại, mê mải nói thêm. Ông so thi sĩ với hòn đá tảng, thơ nói ra (ở người) và thơ nén vào thành lửa (ở đá), cái nào hơn? Ông nhận ra cái không hoàn toàn mới là cái còn tiến hoá. Ông chấp nhận nghich cảnh: nụ hoa hồng vừa nhú tươi non trên cành ông khô nhựa. Ông biết quy luật của nghề:

Ta là ta mà luôn luôn bối rối
Tìm lại ta
Đi tám cõi mười phương rồi mới tìm ra
Nó ở trong nhà

Hơn bảy trăm bài thơ Di cảo là một cách dùng quy luật nghề để vượt lên nghịch cảnh. Ông đã thắng. Chỉ riêng với Di cảo thôi đủ tạo dựng sự nghiệp một nhà thơ lớn.

Nguồn: Hoinhavanvn