Bài 1 đến 10/34

Chủ đề: Tìm hiểu thế giới thi nhân.... (Nguyễn Bính-Thi sĩ giang hồ)

Hybrid View

  1. #1
    Diamond Member PhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucket
    Ngày gia nhập
    May 2009
    Bài viết
    8.176
    Thanks
    301
    Thanked 3.169 Times in 588 Posts

    Default Tìm hiểu thế giới thi nhân.... (Nguyễn Bính-Thi sĩ giang hồ)

    Bùi Giáng

    Tiểu sử

    Ông sinh tại làng Thanh Châu thuộc xã Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.

    Bố của Bùi Giáng là ông Bùi Thuyên, thuộc đời thứ 16 của dòng họ Bùi ở Quảng Nam. Do người vợ cả qua đời sớm nên ông lấy người vợ kế là bà Huỳnh Thị Kiền. Bùi Giáng là con thứ hai của Bùi Thuyên với Huỳnh Thị Kiền nhưng là con thứ 5 nếu tính tất cả các anh em. Khi vào Sài Gòn, ông được gọi theo cách gọi miền Nam là Sáu Giáng.

    Bùi Giáng cưới vợ năm 18 tuổi (1944), vợ ông là bà Phạm Thị Ninh nổi tiếng xinh đẹp, nhưng chỉ vài năm sau, bà bị bệnh, sinh non và cả 2 mẹ con cùng chết. Nhiều người cho rằng đây là 1 trong những lý do khiến Bùi Giáng bị điên từ lúc trẻ. Thời gian này ông có đi chăn bò và dê (theo tập thơ Mưa nguồn, bài "Nỗi lòng Tô Vũ" và "Anh lùa bò vào đồi sim trái chín"). Có tài liệu cho rằng ông chỉ đi chăn dê[1].

    Ông nổi tiếng bởi tốc độ sáng tác nhanh: tập thơ Mười hai con mắt được ông sáng tác chỉ trong một đêm Noel năm 1992.

    Từ năm 1962, Bùi Giáng liên tục cho ra đời nhiều đầu sách. Mỗi năm đều đều vài ba cuốn. Ông là một tác giả có tác phẩm in ra đứng vào hàng kỷ lục ở miền Nam Việt Nam trước 1975. Sách của ông có thể chất thành chồng cao cả mét, thơ thì phải kể bằng đơn vị nghìn bài [2].

    Sau năm 1975, ông không bị đi học tập cải tạo như nhiều văn sĩ miền Nam khác vì ông bị mắc bệnh tâm thần.

    Từ 1975 trở đi ông vẫn tiếp tục sáng tác rất nhiều thơ, nhưng thời gian này ông có biểu hiện bệnh tâm thần nặng. Ông thường rong chơi nghịch ngợm ngoài đường với bộ đồ rách rưới, dơ dáy, nhiều lần bị công an bắt vì gây rối trật tự, cản trở giao thông.

    Tháng 10 năm 1998, trong một lần đi chơi ông bị té làm chấn thương sọ não. Sau khi hỏi ý kiến của nghệ sĩ Kim Cương, bệnh viện chợ Rẫy quyết định mổ cho ông, song ông đã qua đời vào ngày 7 tháng 10, 1998.

    Chuyện tình cảm

    Bùi Giáng chỉ có 1 vợ là bà Phạm Thị Ninh, một thiếu phụ hồng nhan bạc mệnh đã để lại cho ông nhiều đau khổ. Đó là lý do để trong thơ của ông sau này thường xuyên nhắc đến sự mất mát, sự chia ly, một hình bóng cũ: "Có hàng cây đứng ngóng thu/ Em đi mất hút như mù sa bay; hay những dòng thơ trên bia mộ của Bùi Giáng:

    Đùa với gió, rỡn với vân
    Một mình nhớ mãi
    gái trần gian xa
    Sương buổi sớm, nắng chiều tà
    Trăm năm hồng lệ có là bao nhiêu

    Song ngoài người vợ đầu, Bùi Giáng cũng có những đối tượng khác để yêu, để làm thơ, ngoài mối tình đơn phương nổi tiếng giành cho nghệ sĩ Kim Cương, còn phải kể đến những mối tình vượt không gian với những mỹ nhân Tây Phương như Marilyn Monroe (mà ông gọi là Lyn-rô), Brigitte Bardot, ngoài ra trong thơ ông còn có những hình bóng của ca sĩ Hà Thanh, Thái Thanh, ni cô Trí Hải, ni cô Phùng Khánh (ông gọi là Mẫu thân Phùng Khánh), hay cả những nhân vật tiểu thuyết Marguerite, A Châu, A Tử.

    Riêng mối tình đối với Kim Cương được cho là sâu đậm nhất, và đã để lại khá nhiều giai thoại.

    Tác phẩm

    Thơ

    * Mưa nguồn (1962)
    * Lá hoa cồn (1963)
    * Màu hoa trên ngàn (1963)
    * Mười hai con mắt (1964)
    * Ngàn thu rớt hột(1967)
    * Rong rêu (1972)
    * Thơ vô tận vui (1987)
    * Mùa màng tháng tư (1987)
    * Mùi Hương Xuân Sắc (1987)
    * Đêm ngắm trăng (1997)

    Dịch thuật

    * Trăng châu thổ
    * Hoàng Tử Bé
    * Khung cửa hẹp
    * Hòa âm điền dã
    * Ngộ nhận
    * Cõi người ta
    * Nhà sư vướng luỵ

    Nghiên cứu

    * Tư tưởng hiện đại (1962)
    * Martin Heidgger và tư tưởng hiện đại (1963)
    * Đi vào cõi thơ
    * Thi ca tư tưởng
    * Một vài nhận xét về bà huyện Thanh Quan
    * Một vài nhận xét về Lục Vân Tiên, Chinh Phụ Ngâm, quan Âm Thị Kính
    * Vài nhận xét về truyện Kiều và truyện Phan Trần
    * Sa mạc phát tiết (1965)
    * Sa mạc trường ca (1965)
    * Bài ca quần đảo (1969)
    * Mùa thu trong thi ca
    * Ngày tháng ngao du

    (Nguồn: http://vi.wikipedia.org)

  2. #2
    Gold Member PhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucket NHAT NGUYET's Avatar
    Ngày gia nhập
    May 2009
    Bài viết
    1.316
    Thanks
    890
    Thanked 1.050 Times in 231 Posts

    Default Ðề: Tìm hiểu thế giới thi nhân....

    Nhà thơ Xuân Diệu và cái bánh bao

    Một công ty ăn uống ở Hà Nội mới làm được một loại bánh bao ngon, hy vọng hơn cả bánh của người Hoa ở phố Hàng Buồm. Chủ nhiệm công ty là người mê văn nghệ, mời hơn chục nhà thơ đến thưởng thức.

    Ngồi vào bàn, không chờ chủ mời, nhà thơ Xuân Diệu cầm một chiếc bánh bao ăn liền. Còn những người khác thì lịch sự nghe bài diễn văn của chủ nhiệm.

    Đọc xong bài diễn văn ông mời các nhà thơ thưởng thức bánh. Nhìn đến cái đĩa trước mặt nhà thơ Xuân Diệu, thấy trống trơn, ông lừ mắt ra hiệu cho cô nhân viên bỏ thêm bánh vào. Nhà thơ Xuân Diệu lại thản nhiên ăn. Vừa ăn, Vĩnh Mai vừa lúi húi viết. Một lúc sau, mọi người chuyền tay nhau một mẩu giấy có bài thơ bốn câu:

    Cái bánh bao hời, cái bánh bao
    Mùa xuân kỳ diệu, Diệu kỳ sao!
    Người ta một chiếc, ông hai chiếc
    Thơ nghĩ chưa ra, bánh đã vào!


    Xuân Diệu là người đọc bốn câu thơ luân lưu ấy sau cùng, ông gật gù khen hay.

    p/s: Bài thơ cũng "thường thường" thôi các bạn nhỉ, thật ra chỉ hay ở ba chữ "Diệu kỳ sao" thôi! Vừa nhấn mạnh sự kỳ diệu, vừa để trách khéo bác (Xuân) Diệu sao lại kỳ cục thế! Thơ kiểu thế này thì anh chị em NR cũng có thể làm được mà, thế nhưng nó cũng được đi vào những giai thoại của làng thơ đấy!
    Last edited by NHAT NGUYET; 11-06-2009 at 09:20 PM.

  3. #3
    Gold Member PhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucket NHAT NGUYET's Avatar
    Ngày gia nhập
    May 2009
    Bài viết
    1.316
    Thanks
    890
    Thanked 1.050 Times in 231 Posts

    Default Ðề: Tìm hiểu thế giới thi nhân....

    Nhà thơ Nguyễn Bính: Người cài đặt nhiều "mật mã" trong thơ
    (Sưu tầm)

    Ở ta, khi viết thơ tình, đa phần các nhà thơ đều không muốn đưa tên thật của "nguyên mẫu" vào trong tác phẩm của mình. Đó có thể do họ ngại... phiền phức, hoặc do thói quen. Riêng Nguyễn Bính thì khác hẳn. Mỗi lúc thầm yêu trộm nhớ một "em" nào, ông đều tìm cách đưa được tên người đó vào thơ.

    Tất nhiên, vì là nhiều... "em", nên nhà thơ thường cũng chỉ dám đưa một cách kín đáo, nghĩa là để nó đồng âm đồng nghĩa với một chữ nào đó trong câu thơ, và phải là người "trong cuộc" hoặc thật thân gần mới nhận ra. Bởi vậy, nói Nguyễn Bính là người cài đặt nhiều "mật mã" trong thơ, kể cũng không ngoa.

    Theo sách "Giai thoại văn học" (NXB Hà Nội, 2005) thì mùa hè 1941, Nguyễn Bính trên đường vô Nam đã dừng bước tại thị xã Thanh Hóa. Tại đây, trong thời gian ăn nghỉ ở nhà người bạn làm thư ký hỏa xa là Nguyễn Hải Thoại, Nguyễn Bính đã bị hút hồn bởi một giai nhân tên Thuận.

    Có không ít đêm, Nguyễn Bính tít mít ở xóm Lò Chum nơi cô Thuận đang sống phận đào nương. Sợ bạn sốt ruột, lo lắng, Nguyễn Bính làm mấy câu thơ nhờ người đưa về cho Hải Thoại: "Thuận lòng đón gió cành đưa/ Hẹn ngày có thấy cho vừa lòng nhau".

    Đọc hai câu thơ trên, lại thấy chữ Thuận được viết đậm, Hải Thoại đoán ngay Nguyễn Bính đã phải lòng cô Thuận. Ông tức tốc xuống xóm Lò Chum tìm bạn. Quả nhiên Hải Thoại đã gặp Nguyễn Bính ở đây.

    Nữ sĩ Mộng Tuyết, trong hồi ký "Dưới mái trăng non" có nhắc tới chuyện tình của Nguyễn Bính với "một người con gái quê" có tên là Ngọc. Bà kể, một buổi chiều, cô gái này đã trao cho bà một mảnh giấy nhàu nát, nội dung là "xin một cây bút máy tốt và chiếc đồng hồ đeo tay".

    Cuối tờ giấy là dòng chữ "Người yêu Ngọc" (mà bà gọi là "Bính ký ẩn danh") và hai câu thơ của Nguyễn Bính:

    "Than ôi, không có giá liên thành
    Để đổi cho tròn viên ngọc ấy".


    Cùng là người làm thơ, chẳng khó khăn gì mà nữ sĩ Mộng Tuyết không nhận ra tâm sự của Nguyễn Bính với người con gái tên Ngọc trong câu thơ có nhắc tới chữ "ngọc" ấy.

    Trong bài thơ "Diệu vợi", làm lời kẻ thất tình, Nguyễn Bính đã hốt nhiên thốt lên một cái tên:

    "Tôi tưởng rồi tôi quên được người
    Nhưng mà nản lắm, Tú Uyên ơi!
    Tôi vào sâu quá và xa quá!
    Đường lụt sương mờ lụt lá rơi...".


    Đọc đến đây, hẳn bạn đọc yêu thơ sẽ nghĩ ngay rằng, Tú Uyên là một cái tên có thật, và người con gái đó hẳn phải có quan hệ sâu nặng mức nào mới khiến thi nhân đủ "can đảm" đưa tên công khai như thế.

    Sự thật thì đấy chỉ là một "bí danh" do Nguyễn Bính tách ra từ chữ Tuyên (em gái nhà văn Nguyễn Đình Lạp, tên đầy đủ là Nguyễn Thị Tuyên). Chưa dừng ở đó, trong bài "Người con gái ở lầu hoa", Nguyễn Bính còn "mã hóa" nơi ở của cô gái qua hai câu thơ:

    "Nhà nàng bên gốc cây mai trắng
    Trên khóm mai vàng dưới đế kinh".


    Nguyễn Bính đã giải thích với một người bạn, đại ý, cô gái ở Bạch Mai (bấy giờ được coi là một xóm ngoại ô của Hà Nội), vậy "Nhà nàng bên gốc cây mai trắng" chẳng là Bạch Mai là gì? Còn "Trên khóm mai vàng" thì đúng là Hoàng Mai. "Dưới đế kinh", tức... dưới phố Huế.

    Với nữ sĩ Anh Thơ, người từng một thời làm Nguyễn Bính "say như điếu đổ", Nguyễn Bính cũng đã có thơ tặng. Bài thơ viết theo thể lục bát:

    Anh đi không hẹn ngày về
    Chỉ thề ai buộc, tóc thề ai chôn?
    Muốn gì anh muốn gì hơn
    Hôn hoàng nay, lại hoàng hôn mai ngày
    Môi khô vóc liễu thêm gầy
    Anh xa, em kẻ lông mày với ai
    Thơ không làm trọn một bài
    Đàn không gảy trọn một vài khúc ngâm
    Ông tơ già quá nên nhầm
    Ai làm sum họp, ai làm chia phôi
    Chẳng thà đừng kết duyên đôi
    Có cho sum họp để rồi xa nhau
    Tính năm tính tháng thêm sầu
    Ấy hai con én ngang lầu bay bay...


    Trước nhất chắc chắn đây là một bài thơ hay (tặng cho nữ thi sĩ mà lại), có nội dung, có ý tưởng rõ ràng, chứ không chỉ nhằm vào cái mật mã, thế "mật mã" nằm ở đâu? Thú thật khi đọc bài thơ này NN đã không nhận ra tác giả đặt "mật mã" ở chỗ nào...

    Mật mã của bài thơ là... ghép tất cả những chữ đầu của 8 câu thơ, ta sẽ đọc ra thông điệp của tác giả "Anh chỉ muốn hôn môi Anh Thơ. Đàn ông ai chẳng có tính ấy". Thật là một cách tỏ tình... táo bạo. Táo bạo nhưng lại được thể hiện một cách khá... kín đáo. Bởi nếu tác giả không chỉ dẫn, hẳn không phải ai cũng nhận ra.

    Trong một bài viết có tựa đề "Mảnh vườn ao của nhà ngoại Nguyễn Bính", nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn cho biết: Ở thôn Vân (quê ngoại Nguyễn Bính) có cô Diễm đẹp nổi tiếng một vùng.

    Trong thời gian ở đây, Nguyễn Bính thường trò chuyện với cô và giống như cánh trai làng, ông gần như "chết mê chết mệt" trước nhan sắc và sự duyên dáng của Diễm. Và, ông đã bày tỏ tình cảm với cô qua bài thơ "Hoa và rượu" sau khi đã đổi Diễm thành Nhi (?):

    "Ngày xưa còn nhỏ Nhi còn đẹp
    Huống nữa giờ Nhi đã đến thì
    Tháng tháng mươi mười lăm buổi chợ
    Cho người thiên hạ phải say Nhi".


    Ngoài những trường hợp kể trên, đọc thơ Nguyễn Bính, độc giả thi thoảng lại thấy ông nhắc tới một nhân vật mà ông gọi là "chị Trúc" (các bài "Lỡ bước sang ngang", "Xuân tha hương, "Xuân vẫn tha hương"...).

    Vẫn theo thông tin từ nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn thì "chị Trúc" là người đàn bà đẹp nổi tiếng ở thị xã Hà Đông trước đây. Chị họ Lê, tên thật viết tắt là Th, là người yêu của nhà viết kịch Trúc Đường, anh ruột Nguyễn Bính. Với cái lý: Vì là người yêu của anh, nên tên cũng phải được gọi theo tên anh, khi đưa tên chị Th vào thơ mình, Nguyễn Bính đã đổi ra thành chị Trúc.

    Được biết, mặc dù là phận em, song trong tình cảm, có lúc Nguyễn Bính tỏ ra rất quyến luyến, mê đắm người phụ nữ này.

    Chắc chắn, những ví dụ trên vẫn chưa thể hiện được một cách đầy đủ sự "mã hóa" tên người trong thơ Nguyễn Bính...

    (Theo CLB Thơ VN)

  4. #4
    Gold Member PhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucket
    Ngày gia nhập
    May 2009
    Bài viết
    808
    Thanks
    4.832
    Thanked 2.769 Times in 576 Posts

    Default Ðề: Tìm hiểu thế giới thi nhân....

    NGUYÊN SA


    Chắc có lẽ trong chúng ta, ai cũng đã ít nhất một lần đọc thơ Nguyên Sa, nghe, hay nghiêu ngao vài câu trong của một bản nhạc phổ từ thơ Nguyên Sa.

    Áo Lụa Hà Ðông là một bài thơ nổi tiếng của Nguyên Sa được Ngô Thụy Miên phổ nhạc. Qua bài thơ này, ông đã làm cho cái nắng của Sài Gòn không còn như xưa nữa vì tà áo lụa Hà Ðông ông khoác lên người cô gái. Những câu thơ của ông đã đổi hẳn cái nắng tàn bạo đổ lửa xuống lưng của Sài Gòn thành một thứ nắng lãng mạn với tà áo lụa Hà Ðông bay trong gió. Hơn thế nữa, hình ảnh của "sư tử Hà Đông" đã được thay thế bằng người con gái dịu dàng thơ ngây với hoa cúc vàng, mực tím, lá sân trường.

    LK sưu tầm được vài mẫu chuyện về Nguyên Sa và muốn chia sẻ với các bạn một phần nhỏ cuộc đời của người thi sĩ tài hoa này.

    Bài viết về Nguyên Sa gồm có bốn phần.

    Phần một giới thiệu tiểu sử của ông.
    Phần hai ghi lại vài bài thơ nỗi tiếng của ông.
    Phần ba là những suy tư của ông trong thời chiến tranh.
    Sau cùng, LK đưa bạn đi thắp một nén nhang ở nơi an nghĩ cuối cùng của ông như một lời cảm ơn cho những vần thơ thật lãng mạn đã làm cho cuộc sống của chúng ta đẹp hơn.
    Last edited by Lão K; 13-06-2009 at 05:08 AM.

  5. #5
    Gold Member PhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucket
    Ngày gia nhập
    May 2009
    Bài viết
    808
    Thanks
    4.832
    Thanked 2.769 Times in 576 Posts

    Default Ðề: Tìm hiểu thế giới thi nhân....

    Phần 1 - Tiểu Sử


    Nguyên Sa (sinh ngày 1 tháng 3 năm 1932- mất 1998) tên thật là Trần Bích Lan, còn có bút danh Hư Trúc. Ông là một nhà thơ lãng mạn Việt Nam nổi tiếng từ thập niên 1950, với những tác phẩm nổi danh như "Áo lụa Hà Đông", "Paris có gì lạ không em", "Tuổi mười ba", "Tháng Sáu trời mưa", v.v.

    Tổ tiên Nguyên Sa gốc ở Thuận Hóa (Huế), ông cố ông là Thượng thư Trần Trạm, giữ chức Hiệp tá Đại học sĩ trong triều đình thời Tự Đức, đến đời ông nội mới ra Hà Nội.

    Sau khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, gia đình ông tản cư đi Hà Đông. Tại đây, ông bị Việt Minh bắt giam khi mới 15 tuổi. Hồi cư về Hà Nội, gia đình cho ông qua Pháp du học vào năm 1949.

    Năm 1953, ông đậu tú tái Pháp, lên Paris ghi danh học triết tại Đại học Sorbonne. Nhiều bài thơ nổi tiếng của ông được sáng tác trong thời gian này.

    Năm 1955, ông lập gia đình với bà Trịnh Thúy Nga ở Paris. Đầu năm 1956, hai ông bà về nước.

    Năm 1975, ông di tản đi Pháp. Ba năm sau, ông và gia đình qua Hoa Kỳ và ở California từ đó cho tới ngày qua đời.

    Ông mất ngày 18 tháng 4 năm 1998.


    Dạy học
    Ở Sài Gòn, Nguyên Sa dạy triết tại trường Trung học Chu Văn An, đồng thời mở lớp tại nhà dạy triết cho học sinh chuẩn bị thi tú tài 2. Ông cũng có thời gian dạy triết tại Đại học Văn khoa Sài Gòn.

    Ông mở hai trường tư thục là Văn Học và Văn Khôi.

    Ngoài hai trường nhà, ông còn cộng tác với nhiều trường khác ở Sài Gòn như: Văn Lang, Nguyễn Bá Tòng, Hưng Đạo, Thủ Khoa, Thượng Hiền.


    Báo chí
    Tại Việt Nam, Nguyên Sa chủ trương tạp chí Hiện Đại. Tạp chí này được xem là một trong ba tạp chí sáng tác hàng đầu của Việt Nam, cùng với Sáng Tạo và Thế Kỷ 20.

    Qua Hoa Kỳ, Nguyên Sa chủ trương tạp chí Đời, trung tâm băng nhạc Đời và nhà xuất bản Đời.


    Phong cách thơ
    Về phương pháp làm thơ, Nguyên Sa có thuyết cho rằng vần thơ nếu luôn luôn thật sát thì sẽ nhàm chán. Vần không sát hẳn, thậm chí lạc vận, nếu sử dụng đúng cách, đúng chỗ, vẫn ra một bài thơ hay. Ông nói nhiều về thuyết này trong Nguyên Sa - Hồi Ký. (Trích: "Vần thơ có vần chỉnh, vần thông, vần cưỡng áp và lạc vận. Vần chỉnh không cần sự hỗ trợ, không cần sự phối âm, nhưng sự sử dụng những nền âm thanh khác biệt có khả năng làm cho vần thông trở thành vần chỉnh, vần cưỡng và ngày cả vần lạc cũng được nắm tay giữ được trong khoảng không gian giữa trời, giữa đất mênh mông.")

    Thơ Nguyên Sa có một số bài được biết đến nhiều hơn qua những bài hát do nhạc sĩ Ngô Thụy Miên phổ nhạc: Áo lụa Hà Đông, Tuổi mười ba, Paris có gì lạ không em, Tháng sáu trời mưa.

    Thơ
    Thơ Nguyên Sa tập 1
    Thơ Nguyên Sa tập 2
    Thơ Nguyên Sa tập 3
    Thơ Nguyên Sa tập 4
    Thơ Nguyên Sa toàn tập

    Truyện dài
    Giấc mơ 1
    Giấc mơ 2
    Giấc mơ 3
    Vài ngày làm việc ở Chung Sự Vụ

    Truyện ngắn
    Gõ đầu trẻ
    Mây bay đi

    Biên khảo triết học và văn học
    Descartes nhìn từ phương Đông
    Một mình một ngựa
    Một bông hồng cho văn nghệ

    Bút ký
    Đông du ký

    Hồi ký
    Nguyên Sa - Hồi ký
    Cuộc hành trình tên là lục bát

    Sách giáo khoa
    Luận lý học
    Tâm lý học

  6. #6
    Gold Member PhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucket
    Ngày gia nhập
    May 2009
    Bài viết
    808
    Thanks
    4.832
    Thanked 2.769 Times in 576 Posts

    Default Ðề: Tìm hiểu thế giới thi nhân....

    Phần 2
    Những bài thơ nổi tiếng của Nguyên Sa


    Ít người biết những bài thơ nổi tiếng của Nguyên sa như Tiễn biệt, Paris có gì lạ không em, Tuổi Mười Ba, của Áo Lụa Hà Ðông, Tháng Sáu Trời Mưa, Cần Thiết , .. ông viết lúc đi "cua" Nga, sau này là người bạn đời yêu dấu của ông.

    Ông đã viết về những ngày du học ở Pháp, về quê hương, về tình yêu, và kết thúc bằng lễ cưới của mình như sau:


    “...Tôi không muốn đi, tôi muốn ở lại, tôi gọi trở về quê hương là đi, tôi gọi tới Paris là về. Tình yêu của tôi ở đó, phần đời có trọng lượng của toàn thể của tôi ở đó. Cảm xúc lớn lao, giao động cực mạnh mang lại hàng loạt những bài thơ về biệt ly. Paris có gì lạ không em, Tiễn biệt, Paris. Tôi khởi sự thơ với chủ đề ly biệt. Tôi bắt đầu cùng lúc những bài tình ái và những bài biệt ly. Cũng có thể nói được như thế. Thơ chủ đề biệt ly và thơ chủ đề tình yêu đến gần như trong cùng một thời gian. Xen kẽ. Hỗ trợ. Trong thơ tình có khắc khoải chia xa. Trong Tiễn biệt, Paris có gì lạ không em, Paris có gục đầu trên vai nhau. Nga đầy ắp Paris là bài thơ tình đầu tiên, sau đó là Tuổi Mười Ba, của thời kỳ Paris gục đầu trên vai nhau. Paris tiễn nhau ở gare De Lyon, ở phi trường Orly, Áo Lụa Hà Ðông, Tháng Sáu Trời Mưa, Cần Thiết của Sài Gòn 1956 và những năm kế tiếp, Nga 1955, Tiễn biệt đầu tiên. 1953, hai bài Paris 54 và 55. Thơ tình của những ngày tháng hôn nhân đến trước thơ tình của tuổi học trò. Áo Lụa Hà Ðông, Tuổi Mười Ba, Tháng Sáu Trời Mưa trình làng ở Sáng Tạo, khi đã trở về Việt Nam, làm khoảng thời gian 56-57. Nga in trên tờ thiệp báo hỷ, bài thơ tương đối dài làm cho người bạn ấn loát in tặng phải chọn lựa tờ giấy lớn hơn thiệp báo hỷ rồi gấp lại làm ba. Tờ thiệp báo hỷ của tôi in trên khổ giấy năm rưỡi tám rưỡi, giấy bảy chục gam, loại láng, in chữ nghiêng, tới chữ O của ‘môi em tròn như chữ O’ câu thơ in nghiêng, anh bạn ấn công chỉ cho tôi thấy chữ O anh đã chọn kiệu chữ thẳng, rất tượng hình thơ...”
    Last edited by Lão K; 13-06-2009 at 06:48 AM.

Chủ đề tương tự

  1. Thác Giang Điền
    By travelvietnam in forum Du Lịch Đó Đây
    Trả lời: 0
    Bài cuối: 08-04-2011, 11:26 AM
  2. Núi non Hà Giang
    By Quỳnh_muộn in forum Du Lịch Đó Đây
    Trả lời: 2
    Bài cuối: 03-12-2009, 05:43 PM
  3. Pha Lê làm người đẹp giang hồ
    By TeacherABC in forum Tin tức - Đời sống Điện ảnh
    Trả lời: 0
    Bài cuối: 24-09-2009, 08:57 AM
  4. Lưu Hương Giang - Vol.1
    By Đôi Mắt Mùa Đông in forum Links Download Nhạc Việt
    Trả lời: 0
    Bài cuối: 28-07-2009, 11:39 AM
  5. Thành phố mưa bay - Bằng Giang
    By Nguyên Thoại in forum T
    Trả lời: 1
    Bài cuối: 18-06-2009, 10:21 AM

Posting Permissions

  • Bạn không thể tạo chủ đề mới
  • Bạn không thể trả lời
  • Bạn không thể dùng tập tin đính kèm
  • Bạn không thể hiệu chỉnh bài
  •