Trang 2 / 4 Đầu tiênĐầu tiên 1234 LastLast
Bài 11 đến 20/34

Chủ đề: Tìm hiểu thế giới thi nhân.... (Nguyễn Bính-Thi sĩ giang hồ)

  1. #11
    Gold Member PhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucket
    Ngày gia nhập
    May 2009
    Bài viết
    808
    Thanks
    4.832
    Thanked 2.769 Times in 576 Posts

    Default Ðề: Tìm hiểu thế giới thi nhân....

    Sân Bắn




    Bia lên ta thấy thân người
    Thấy ta thấy địch, thấy đời lãng du
    Thấy tay dư, thấy chân thừa
    Thấy tai nghễnh ngãng, mắt mù óc không..
    Một đời phơ phất hình nhân
    Thấy còn thấy hết, sau cùng thấy đau
    Bia lên thấy mẹ u sầu
    Giấy bồi tơi tả cúi đầu trong ta
    Trời cao ngó xuống thịt da
    Bia lên trông cũng vật vờ cỏ xanh
    Bia lên tìm chỗ ta nằm
    Non cao duỗi cẳng em còn thấy đâu
    Hầm bia buồn đến mộ sâu
    Nghìn cây nến thắp trên đầu đạn bay.

    Nguyên Sa

  2. #12
    Gold Member PhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucket
    Ngày gia nhập
    May 2009
    Bài viết
    808
    Thanks
    4.832
    Thanked 2.769 Times in 576 Posts

    Default Ðề: Tìm hiểu thế giới thi nhân....

    Phần cuối
    Nơi an nghĩ cuối cùng của Nguyên Sa


    Nguyễn Mạnh Trinh, nhà văn và cũng là thi sĩ nổi tiếng ở hải ngoại, đã viết về nơi an nghĩ cuối cùng của thầy mình trong một đoản văn như sau

    Ngày cuối tuần, là ngày Thanh minh. Nhớ lại câu Kiều “Thanh minh trong tiết tháng ba. Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh..” để nhớ bổn phận của một người con, của một người cầm bút nhớ lại những người đã ra đi. Nghĩa trang Peek Family ở cuối đường Bolsa, nơi an nghỉ của mẹ tôi, của thầy Nguyên Sa, thầy Nguyễn Khắc Hoạch, thầy Vũ Văn Tiên, anh Mai Thảo, anh Long Ân, Nguyễn Tất Nhiên, và người anh vợ tôi vừa ra đi cách nay vài ngày, ở những ngôi mộ mà ngày hôm nay tôi đến cắm những nén nhang tưởng nhớ. Con đường Bolsa, con đường đặc biệt của người tị nạn Việt Nam, nơi mở đầu một cuộc sống với phố xá ồn ào, cửa hàng tấp nập và chấm dứt đời tị nạn với những ngôi mộ thinh lặng chỉ có cây cỏ và những chú chim dạn dĩ. Trời hôm nay nắng đẹp trải màu đỏ hồng trong những thảm cỏ xanh rờn. Cuối Mùa Xuân đầu Mùa Hè, tầng mây cao vút, thấy trời và đất thật gần nhau và người chết và người sống dường như có những rung động sâu xa từ tâm thức. Ðến từng ngôi mộ, nhìn lại di ảnh những người đã khuất, tự nhiên tôi thấy lòng bồi hồi. Chỉ mấy năm qua thôi, mà trải qua tưởng như lâu lắm. Những câu thơ trên bia mộ thi sĩ Nguyên Sa, Mai Thảo, Long Ân, Nguyễn Tất Nhiên, hay những câu đối trên bia mộ giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch, Vũ Văn Tiên, như những nhắc nhở để nhớ về, để tưởng vọng.

    Tôi nhìn di ảnh thầy Nguyên Sa, thấy cái nón kết quen thuộc, thấy nụ cười hiền hòa bao dung khi bị lũ học trò cũ chúng tôi chọc phá. Mới đây mà đã mười năm.


    Trong những năm cuối của cuộc đời, Nguyên Sa có cái nhìn về tình yêu như sau:

    “Ðề tài tình yêu thường thay đổi theo thời gian... trước năm 1963, tình yêu đó thuần túy những cảm xúc, những đam mê. Ðó là niềm đam mê, lúc tin tưởng mạnh mẽ, lúc rụt rè thắc mắc, lúc muốn ngỏ lời, lúc không dám ngỏ. Nhưng về sau lúc người ta 50, 60 tuổi, đam mê tình ái không còn nữa, như xao xuyến về một vạt áo trong sân trường, như bồi hồi vì một mái tóc xõa ngang vai, không có nữa. Thời gian xóa bỏ nhiều thứ. Tình yêu có bóng dáng của sự buồn phiền xót xa vì thời gian trôi qua. Và ngậm ngùi nhận ra rằng việc chấm dứt cho tất cả mọi sự sẽ phải tới. Khi nào suy nghĩ ấy xen lẫn trong đời sống trong tình yêu trong thơ, tất cả sẽ chán chường. Võ sĩ lên đài mà không nghĩ đến chiến thắng đến tiền thưởng mà chỉ nghĩ đến cái chết gần tới thì chắc chắn quả đấm của võ sĩ ấy phải khác với một võ sĩ chỉ nghĩ đến cách thế để cho đối thủ quỵ ngã. Ðối với tôi tâm sự về tình yêu lúc 50 tuổi trở lên như võ sĩ lên đài thay vì chiến đấu mãnh liệt say mê thì lại đưa quả đấm giơ lên rồi bỏ xuống. Tư tưởng cái chết ám ảnh mạnh mẽ tình yêu...”

  3. #13
    Gold Member PhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucket
    Ngày gia nhập
    May 2009
    Bài viết
    808
    Thanks
    4.832
    Thanked 2.769 Times in 576 Posts

    Default Ðề: Tìm hiểu thế giới thi nhân....


    Nguyên Sa ở Peek Family Memorial Park









    Nằm chơi ở góc rừng này
    Chưa thiên thu cũng đã đầy cỏ hoang
    Xin em một sợi tóc vàng
    Làm hoa khởi sự cho ngàn kiếp sau
    Biết đâu thảo mộc bớt đau?
    Biết đâu có bản kinh cầu dâng lên?

    Nguyên Sa

  4. #14
    Gold Member PhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucket
    Ngày gia nhập
    May 2009
    Bài viết
    808
    Thanks
    4.832
    Thanked 2.769 Times in 576 Posts

    Default Ðề: Tìm hiểu thế giới thi nhân....


    Nguyên Sa và Tình Ca Ngô Thụy Miên


    Tin nhà thơ Nguyên Sa mất đến với tôi thật đột ngột! Sáng nay một người bạn gọi vào sở hỏi tôi:"Ông có biết nhà thơ Nguyên Sa vừa qua đời chưa?" Tôi bàng hoàng, thẩn thờ một chút mặc dù đã được biết tình trạng sức khoẻ của ông mấy năm gần đây. Chúng tôi trao đổi vài ba câu chuyện. Tôi cám ơn bạn rồi thầm nói với mình: "Thôi, cái thời tuổi trẻ mộng mơ, yêu đương nồng nàn ngày nào đã thực sự không còn nữa. Không còn nữa những lụa là mưa nắng Sàigòn, cũng không còn nữa Paris, người tình và giòng sông Seine với những vòng tay ôm, những môi hôn vội vả… Người đạo diễn đã bỏ cuộc chơi, bọn tài tử chúng tôi ở lại còn gì để bàn chuyện thu phong, còn gì để làm dáng với đời, làm điệu với người!"...

    Ngoài trời những giọt mưa vẫn tiếp tục rơi đều trên khung cửa kính. Buổi chiều về nhà, bạn bè dưới Cali gọi lên báo tin. Bỏ điện thoại xuống, tôi ra vườn sau nhà. Nhìn những cánh hoa anh đào đang rụng bay theo gió, chợt thấy lạnh, và nỗi buồn ập đến khiến tôi choáng váng. Buổi tối anh Nguyễn Mạnh Trinh gọi lên nhờ tôi đóng góp một bài để đăng trong tuyển tập anh dự định in trong những ngày sắp tới. Tôi hứa sẽ viết một chút về những bản nhạc đã phổ từ thơ ông.

    Tôi không rõ nhà thơ Nguyên Sa từ Pháp trở về Việt Nam từ năm nào, chỉ biết cùng với nhà thơ Cung Trầm Tưởng, ông đã đem Paris về cho bọn trẻ chúng tôi. Một Paris với hè phố Saint Michel, với sông Seine, tháp Eiffel, những cặp tình nhân, giáo đường sương mù… Cùng một lúc ông đã mang nắng Sàigòn, lụa Hà Ðông và đâu đó bóng dáng Hà Nội vào thi ca Việt Nam của chúng ta một cách thân thiết nhẹ nhàng. Nhiều người hỏi tôi có quen biết hay có họ hàng với nhà thơ? Như tôi đã nói, chúng tôi không có liên hệ gì ngoài sự cảm thông của hai con người cùng yêu nghệ thuật. Nói rõ hơn, tôi chỉ là một trong hàng triệu người yêu quí thơ ông, một người may mắn có thể gửi lời biết ơn giòng thơ tuyệt vời của ông qua những nốt nhạc giản dị, chân tình.

    Cuối năm 1969, khi một số tình khúc của tôi đã được phổ biến rộng rãi trên các đài phát thanh, cũng như trong những đêm sinh hoạt văn nghệ được tổ chức tại nhiều trung tâm văn hoá, hay các giảng đường đại học. Tôi đến với thơ Nguyên Sa, không từ một chọn lựa, mà vì tôi đã nhìn thấy mình trong thơ của ông, đã nghe những rung động thầm kín nhất của tuổi trẻ mình được ông tạo lên bằng những lời thơ ngọt ngào tình tứ, tươi mát. Cũng như bao nhiêu anh em thanh niên sinh viên học sinh của thập niên 60, tôi yêu và thuộc không ít thơ của ông. Nói đến Áo Lụa Hà Ðông, có lẽ chúng ta mấy ai không biết:

    Nắng Sàigòn anh đi mà chợt mát
    Bởi vì em mặc áo lụa Hà Ðông.

    Cá nhân tôi khi đọc bài thơ đã chú ý ngay 4 câu:

    Em chợït đến, chợt đi anh vẫn biết
    Trời chợt mưa, chợt nắng chẳng vì đâu
    Nhưng sao đi mà không bảo gì nhau
    Ðể anh gọi, tiếng thơ buồn vọng lại.

    Lời thơ man mác buồn, đã vỗ về, chia xẻ tâm tư tôi ngày tháng đó. Lang thang Sàigòn một ngày nắng nhẹ, giòng nhạc lan man trong đầu óc: "Rê Ðô Rê, Sol Sib Sib Rê Rê, Sol Sol La, Sol Sib Rê Rê La…", tôi đã hoàn tất phần điệp khúc được viết theo cung Rê thứ để thích hợp với hồn thơ. Khi phổ hai phần đầu, và cuối, tôi đã gặp khó khăn với hai câu:

    Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng

    Giữ hộ anh bài thơ tình lụa trắng

    vì vần trắc của chữ "trắng" đã không thích hợp với giòng nhạc chuyển tiếp cần âm bằng. Sau hơn một tuần loay hoay tìm kiếm, cuối cùng tôi đã phải dùng một phương pháp phổ thơ cũ: nhắc lại lời thơ ở câu trên để chuyển ý nhạc trở về phần hai, cũng như đoạn cuối của bản nhạc:

    Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng.
    Anh vẫn nhớ em ngồi đây, tóc ngắn

    Ðể tạo ấn tượng nuối tiếc cho người nghe, khi kết thúc bản nhạc, tôi đã thêm câu:

    Anh vẫn yêu màu áo ấy, em ơi

    với giòng nhạc đi lên, chuyển từ Sol thứ qua Sib, La, và chấm dứt bằng Rê trưởng.

    Cuối năm 1970, trong một đêm nhạc tình ca tại trường đại học Khoa Học, tôi đã giới thiệu bài hát tới các bạn trẻ của tôi. Sau đó bản nhạc đã được phổ biến thường xuyên qua các chương trình nhạc do tôi và nhạc sĩ Trường Sa thực hiện trên đài phát thanh Quân Ðội, cũng như trong các đêm nhạc do bạn bè chúng tôi tổ chức tại Sàigòn. Ngoài ra trong năm 1970, tôi cũng đã viết "Tình Khúc Tháng Sáu" phổ theo ý thơ bài Tháng Sáu Trời Mưa của Nguyên Sa. Mãi đến năm 1984 tôi mới phổ bài "Tháng Sáu Trời Mưa" của ông.

    Những năm 60, 70, bọn trẻ chúng tôi dù trưởng thành trong khói lửa chiến tranh, có ai không mơ một ngày được đặt chân đến Paris, được cùng người yêu dạo chơi phố phường Paris, hay lang thang bên bờ sông Seine nhớ đến một cuộc tình… Paris như một lời kêu gọi, một nơi chốn tìm về cõi tình yêu. Từ những mộng ước đó, bản nhạc thứ hai tôi phổ từ thơ Nguyên Sa đã thành hình. Có những bài thơ khi muốn phổ nhạc, người nhạc sĩ phải tìm điệu nhạc để chuyên chở ý thơ, hoặc phải thay đổi lời thơ để nhập vào ý nhạc… Riêng "Paris Có Gì Lạ Không Em" khi đọc lên tôi đã nghe phảng phất tiếng phong cầm rộn rã của nhịp 3 luân vũ. Trên phím dương cầm, giòng nhạc dồn dập, chạy dài trên 10 đầu ngón tay, tôi đã hoàn tất phổ bài thơ trong một ngày đầu xuân năm 1971.

    Cung Ðô trưởng mở đầu nhịp nhàng:

    Paris có gì lạ không em
    Mai anh về, em có còn ngoan...

    tôi thích nhất câu:

    Là áo sương mù hay áo em

    từ cung Ðô trưởng đổi chuyển qua La thứ để vào phần điệp khúc:

    Anh sẽ cầm lấy đôi bàn tay
    Tóc em anh sẽ gọi là mây...

    Khi Hoàng Phúc bạn tôi hát bài này lần đầu tiên, đã nói "bài này phải để chị Thái Thanh hát mới được". Ðúng như lời Phúc nói, sau này chị Thái Thanh đã thu bài này. Ðể thêm một chút Paris, chị đã hát:

    La la la la la la
    La la la la la la

    khi kết thúc bản nhạc.

    Sau Áo Lụa Hà Ðông và Paris Có Gì Lạ Không Em, tôi đã phổ tiếp Tuổi 13. Cũng như "Nắng Sàigòn anh đi mà chợt mát. Bởi vì em mặc áo lụa Hà Ðông", "Áo nàng vàng tôi về yêu hoa cúc, Áo nàng xanh tôi mến lá sân trường" là 2 câu thơ được bọn trẻ chúng tôi thuộc nằm lòng ngày đó. Tôi yêu cái ý thơ hồn nhiên, lời thơ trong sáng. Ðọc bài thơ thấy hồn lâng lâng, như đang nhớ nhung, hẹn hò, đang đợi chờ, mơ ước. Ý nhạc đến thật nhanh:

    Trời hôm nay mưa nhiều hay rất nắng
    Mưa tôi trả về bong bóng vỡ đầy tay...

    Tôi đã vào đề với những nốt nhạc cao của cung Ðô trưởng để diễn tả cái thắc mắc ngày mưa ngày nắng của mình. Khi chuyển qua điệp khúc tôi nhắc lại câu "Tôi phải van lơn ngoan nhé đừng ngờ…" 2 lần như một lời trấn an người tình nhỏ và kết thúc tôi nhắc lại câu "Nên đến trăm lần, nhất định mình chưa yêu" như một câu hỏi cho chính lòng mình. Tôi vẫn nghĩ bản nhạc với những niêm luật gò bó đã không thể nói lên hết được ý thơ của tác giả. Chỉ hy vọng bản nhạc đã không làm giảm giá trị của bài thơ.

    Ðầu năm 1974, khi quyết định cùng một nhóm bạn thực hiện cuốn băng Tình ca Ngô Thụy Miên, tôi đã đến gặp nhà thơ để xin phép thu 3 bản nhạc. Lần đầu tiên nói chuyện để lại ít nhiều kỷ niệm. Nhà thơ rất giản dị, dáng dấp xuề xoà. Ông rất vui khi biết tôi phổ thơ ông, và hỏi tôi sẽ nhờ ai hát ? Tôi nói nhạc sĩ Văn Phụng viết hoà âm, ca sĩ Duy Trác hát Áo Lụa Hà Ðông, Thái Thanh hát 2 bài Paris Có Gì Lạ Không Em, Tuổi 13. Và từ đó, Áo Lụa Hà Ðông, Paris Có Gì Lạ Không Em , Tuổi 13, đã trở thành một phần đời nhạc Ngô Thụy Miên.

    Năm 1980 khi tôi đặt chân đến Cali, người đầu tiên tôi liên lạc để hỏi thăm tin tức sinh hoạt văn nghệ của cộng đồng chúng ta ở hải ngoại là nhà thơ Nguyên Sa. Ông có cho tôi biết về sự ưu ái của thính giả dành cho bài Áo Lụa Hà Ðông, cũng như cuốn băng Tình ca Ngô Thụy Miên. Năm sau đó tôi đã rời Cali để lên miền Tây Bắc. Ông vẫn thỉnh thoảng liên lạc bằng điện thoại với tôi, và gửi lên tôi những bài thơ mới viết về sau.

    Trong những tháng ngày đầu ở Cali, mặc dù bận rộn với đời sống mới, tôi vẫn tiếp tục sáng tác. Cùng với Em Còn Nhớ Mùa Xuân, Bản Tình Ca Cho Em, Dốc Mơ… Tôi đã phổ bài thơ "Paris" của Nguyên Sa: Mai tôi đi chắc Paris sẽ buồn, Paris sẽ nhìn theo... với tôi Paris lúc đó chính là Sàigòn, Sàigòn của những nỗi nhớ muộn màng, Sàigòn của những mất mát khôn nguôi. Ý nhạc không tươi trẻ như Tuổi 13, hồn nhạc không dịu dàng như Áo Lụa Hà Ðông. Tôi đã mượn thơ ông để gửi gấm tâm sự mình. Tôi biết khi tôi đi Sàigòn đã buồn, và Sàigòn đã nhìn theo.

    Năm 1981, sau khi về cư ngụ tại thành phố Seattle, trong nỗi nhớ những con đường, những hàng quán thân quen của Sàigòn ngày nào, cùng với ám ảnh thương yêu về Áo Lụa Hà Ðông, về Paris của một thời, tôi đã viết bài Nắng Paris Nắng Sàigòn:

    Tôi đi giữa trời Paris mà nhớ thương Sàigòn
    Nắng Sàigòn hôm nao dìu bước chân em
    Qua phố phường vào quán chợ thân quen...

    Tôi nghĩ đây là một kết hợp đẹp của một phần đời nhạc Ngô Thụy Miên và thơ Nguyên Sa.

    Năm 1986, nhà thơ gọi lên tôi và nói sẽ thực hiện một cuốn cassette gồm một số bản nhạc phổ thơ mới của ông. Tôi gửi xuống ông "Tháng Giêng Và Anh", đã được Hải Lý hát, và sau đó là Vũ Khanh, Ý Lan, Khánh Hà… Ông rất thích bài hát này. Tiếc là bản nhạc đã không được phổ biến rộng rãi như ý ông muốn.

    Ðầu năm 1997, tôi về Cali ra mắt cuốn CD Riêng Một Góc Trời, trong đó có bài "Cần Thiết" phổ từ thơ ông do Thanh Hà hát. Gần đến phút cuối chương trình, tôi được biết có ông đến tham dự. Rất tiếc tôi đã không thể đến gặp ông để chào hỏi, cũng như ngỏ một lời cảm ơn.

    Năm ngoái khi anh chị Duy Trác qua Seattle thăm bạn bè, chúng tôi đã có dịp gặp lại nhau. Anh em hàn huyên tâm sự, và anh tặng tôi một cuốn cassette có chương trình phát thanh giới thiệu chủû đề Thơ Nhạc Nguyên Sa/Ngô Thụy Miên do anh thực hiện tại Houston Texas. Trong chương trình này anh Duy Trác có nhắc lại:

    Thi sĩ Nguyên Sa đã có lần nói rằng bài thơ Áo Lụa Hà Ðông của ông có một số mệnh rất đặc biệt. Khi bài thơ được nhạc sĩ Ngô Thụy Miên phổ thành ca khúc, và ca sĩ Duy Trác trình bày, thì từ đó cái tên Áo Lụa Hà Ðông đã gắn chặt tên tuổi của 3 người, thi sĩ, nhạc sĩ và ca sĩ. Nó đã trở thành một định mệnh. Mặc dù đây không phải là bài thơ hay nhất của Nguyên Sa, cũng như không phải là ca khúc tuyệt tác nhất của Ngô Thụy Miên, cũng như không phải là bài hát mà ca sĩ Duy Trác trình bày thành công nhất.

    Một lần nào đó tôi đã nói "trong nhạc Ngô Thụy Miên, thơ Nguyên Sa có một chỗ đứng rất đặc biệt…" Vâng, trong nhạc tôi ý thơ ông bàng bạc khắp nơi, đâu đó thấp thoáng một chút nắng Sàigòn, một chút lụa Hà Ðông, đâu đó bâng khuâng một chút trời Paris và người yêu rất nhớ… Ðịnh mệnh đã cho tôi được đọc thơ Nguyên Sa, được nghe tiếng hát Duy Trác, được thưởng thức hoà âm của Văn Phụng, để ngày hôm nay, và mãi mãi sau này, dù các anh còn ở đây, hay đã đi rồi, tôi vẫn xin được gửi lời cám ơn chân thành nhất của một người viết nhạc tình ca đến các anh. Xin lần cuối gửi lời cầu chúc nhà thơ một chuyến đi xa về nơi an lành, vĩnh cửu.

    Ngô Thụy Miên
    4/1998



  5. #15
    Diamond Member PhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucket
    Ngày gia nhập
    May 2009
    Bài viết
    8.176
    Thanks
    301
    Thanked 3.169 Times in 588 Posts

    Default Ðề: Tìm hiểu thế giới thi nhân....

    Hai mươi năm ngày mất nhà thơ lớn Chế Lan Viên
    Vũ Quần Phương

    “Mười bẩy tuổi, khi còn ngồi trên ghế nhà trường trung học đã có tập thơ gây sửng sốt cho thi đàn, quả là một thần đồng, tám năm cuối đời lại có sức bút đủ làm thành một sự nghiệp riêng, không thua gì cả đời thơ đã trải, Chế Lan Viên là một tài năng thơ lực lưỡng nhất trong các nhà thơ hiện đại.” Nhưng Chế Lan Viên không chỉ lực lưỡng về sức viết, cái ông lớn ở tầm tư duy thời đại của dân tộc mới thật đáng kể. Có thể hình dung, trong biển thơ mênh mông nước Việt, một mình Chế Lan Viên làm một dòng hải lưu trào dâng cuồn cuộn lan toả. Kỳ lạ là Chế có những bước đi khác hẳn người đương thời: Khi bạn bè ông rên xiết bóng bẩy thì ông khiến người ta kinh hoàng; khi bạn bè ông véo von ngợi ca thì Chế trầm tư ngẫm ngợi, còn khi con em mình vẫn đang hoang mang trước những tung toé thì ông đã dường như ở hẳn cõi khác nhưng từ đó vọng về khúc bi ca bất tận của thân phận làm người. (VanVn.Net)

    Lượng thơ, gộp trong hai tập đầu của bộ Chế Lan Viên toàn tập (gồm 5 tập), chiếm ngót 1400 trang khổ 13,5 x 20,5, trong đó Di cảo mới công bố 3 tập (đã soạn xong tập thứ tư . Chế Lan Viên có thơ bốn câu và cũng có nhiều bài tới nghìn câu khổ rộng. Tập Những bài thơ đánh giặc (Thanh Niên 1972), 78 trang, mà mới chỉ ba bài. Khối lượng đồ sộ, bao gồm nhiều chặng cảm xúc và nhận thức cuộc sống. Đến nay, sau 17 năm ông xa khuất, đã có độ lùi năm tháng, thời cuộc cũng lắm đổi thay, lắm thử thách còn mất của văn chương, bài giới thiệu này muốn một cái nhìn bao quát cả đời thơ ông: đâu là chất thơ vĩnh cửu ngay trong những bài thơ thời sự, đâu là những khác biệt trên từng chặng trong một Chế Lan Viên thống nhất...

    Điêu tàn, 36 bài và sau Điêu tàn, 34 bài nữa, coi chung là những thi phẩm trước cách mạng của ông. Chủ đề Điêu tàn được nhiều người xác định là tiếng than khóc cho một đất nước đã tiêu vong. Đúng thể, nhưng chưa đủ. Bởi ngay trong đề tài Chàm này, mà đề tài Chàm mới chỉ chiếm một phần Điêu tàn, thì cảm hứng thơ Chế Lan Viên đâu chỉ khuôn trong nỗi buồn vong quốc của dân Chàm, đâu chỉ là nỗi nuối tíêc khung cảnh huy hoàng nước non Hời trong dĩ vãng. Ngoài Những cô thôn vàng nhuộm bóng chiều tươi với Những chiến thuyền nằm mơ trên sông lặng / Bầy voi thiêng trầm mặc dạo bên thành và Những Chiêm nữ nhẹ nhàng quay lại ấp / Áo hồng nâu phủ phất xoã lời vui... Còn gì nữa chứ. Còn, ấy là:

    Sọ dừa ơi hãy nghe ta truyền phán
    Hãy ngả nghiêng lăn lộn, hãy kêu gào
    Hãy rít lên những điệu xương vỡ rạn
    Hãy buông ra những tiếng máu sôi trào

    Còn:

    Rồi lấy ra một khớp xương rợn trắng
    Nút bao giòng huyết đẫm khí tanh hôi
    Tìm những “miếng trần gian” trong tuỷ cạn,

    Nhà thơ trẻ lãng mạn Chế Lan Viên muốn gì trong cõi yêu tinh kinh dị u uất ấy?

    Hãy về đây, về bên ta mi hỡi
    Đem cho ta những phút rỡn kinh hồn
    Những phút mộng điên cuồng, mơ dữ dội

    Ông muốn tìm giải thoát trong cõi yêu ma. Chán sắc màu thật của trần gian nên thích hồn phách say sưa trong giả dối(...) Cho lăn lóc hồn mê trong Ảo Huyễn. Tự tạo ra ảo huyễn. Nước Chàm xưa chỉ là một (trong nhiều) ảo huyễn được gợi nên từ bóng dáng đổ nát những tháp Chàm ngày đêm in bóng trên nền trời Bình Định, trên không gian tuổi thơ của tác giả. Đây là chỗ giao thoa của hồn thơ Chế Lan Viên và Hàn Mặc Tử. Hàn Mặc Tử ảo huyễn trong cõi điên, xáo trộn yêu ma với Thiên Chúa, với Thánh Thần. Chế Lan Viên tìm vào cõi âm, hồn thơ lảng vảng tìm thi hứng từ những tha ma, huyệt mộ, đầu lâu, xương tàn, máu, não ... Không gian là trăng mờ, bóng tối, đêm đen. Nhân vật là Các cô hồn lặng ngắm cõi hư vô. Đến tiếng mõ lốc cốc của trần gian, ông cũng thấy Tựa đầu lâu reo dưới khớp xương tàn Trong thơ cổ điến nhiều nhà thơ cũng đã nói tới cõi âm. Nguyễn Du trong Văn Chiêu hồn cũng đã phục hiện bóng dáng những cô hồn Lôi thôi bồng trẻ dắt già. Nhưng không dựng các chi tiết đặc tả xác chết, hồn ma ghê rợn, tiếng xương kêu, máu thét kinh hoàng. Mạch cảm xúc này cha ông ta ít khi khai thác, nó không có trong truyền thống. Phương Tây thì nhiều, rõ và gần nhất là Beaudelaire. Niềm kinh dị (chữ của Hoài Thanh) do Chế Lan Viên gây nên xuất phát từ đây. Nhưng, theo tôi, sức thu hút của Điêu tàn không chỉ ở kinh dị với ma khóc quỷ hờn, đầu lâu la hét...trong cõi âm mờ tối, mà nhiều hơn lại ở sự mê đắm. Mê đắm vẻ đẹp rất nhiều ánh sáng kỳ ảo của trần gian thanh thiên bạch nhật. Thiên nhiên tươi sáng, son trẻ, nghịch ngợm, đa tình.

    Cảnh xuân:

    Hàng dừa cao say xưa ôm bóng ngủ
    Vài quả xanh khảm bạc hớ hênh phô
    Xoan vươn cành khều mặt trời rực rỡ
    Bên bóng râm lơi lả nhẹ nhàng đu

    Cảnh thu:

    Mặt trời nở trong ô cây thếp bạc
    Trên ngàn xanh nhí nhảnh ánh vàng lay
    Muôn chim non cùng ngây thơ ca hát
    Lũ bướm vàng quên lạnh thẩn thơ bay

    Đây cũng là khí quyển quen thuộc của phong trào Thơ Mới. Trong tâm lý tiếp nhận cảnh sắc ấy có lòng yêu đời say đắm, say đắm mà thành lãng mạn mà tạo thần tiên cho cõi trần. Đây lại là chỗ giao thoa của Chế Lan Viên với Xuân Diệu và cả với Thế Lữ (Thế Lữ tạo thần tiên hơi quá tay nên có hao hụt thi vị trần tục). Hồn người thơ ở đây trong trẻo quá, cách xa lắm với khí đêm u uất cõi ma trong các bài thơ khóc dân Hời. Cảnh xuân: tả cây, tả quả, tả cành, tất cả đều nhân cách hoá, đây say sưa ôm bóng ngủ, kia hớ hênh phô, hoặc khều nghịch ngợm. Tinh, hóm, sống động. Nhưng thần tiên nhất là cái bóng râm, không sống chết, nhưng lại đa tình hơn cả, lơi lả nhẹ nhàng đu. Cảnh thu có cây, chim non, bướm vàng sinh động nhưng chưa kỳ ảo bằng cái ánh vàng, nó nhí nhảnh lay. Những nét ảo chấm phá điểm xuyết ấy làm cảnh thực lung linh hơn chính nó. Một chút như vô tình buột ra thế thôi nhưng đấy là dấu hiệu của tài năng, không dễ có. Giai đoạn sau Điêu tàn , bút pháp ảo trần gian trong trẻo này được vận dụng nhiều. Bài thơ Trưa đơn giản là thành công tiêu biểu cho khuynh hướng này. Những không gian trưa trưa quanh vườn, trưa quanh gốc, trưa lên trời, trưa lạc vào lăng tẩm, trưa bước xuống những sân ga... các trưa điển hình của hiện thực nhưng được thu nhận bằng cái nhìn ảo. Thực ảo lẫn vào nhau, tạo một cảm xúc chập chờn nửa vào cõi lạ nửa trong cõi đời. Câu thơ mê đi làm tỉnh thức rất nhiều cảm giác, ý thức thành mơ hồ, tài tình lắm:

    Trưa, theo tàu bước xuống những sân ga
    Dựng buồn lên xa gửi đến Muôn Xa
    Đây trưa hiện hình trong căn trường nhỏ
    Đưa tay thoa những hàng kính vỡ

    Đây là một chặng phát triển cảm xúc Chế Lan Viên sau giai đoạn kinh dị. Đôi lúc ông tạt qua bút pháp ấn tượng, tạo nét siêu thực chừng mực, đủ sức gợi. Ý nghĩa câu thơ lùi lại phía sau nhường cho cảm giác hình thành:

    Thâm khuê ý thức chong đèn lạnh
    Mặt nguyệt tâm tư tròn vẹn gương
    Chiếc én thành son chưa đẫy cánh
    Nét đau xanh liễu chửa buông tường

    Chế Lan Viên không phát triển bút pháp này. Hướng ấy là sở trường của Nguyễn Xuân Sanh, nhưng bài thơ Lại thấy thời gian này ( viết khoảng 1937-1946) là một bài thành công, cho thấy biên độ cảm hứng của Chế Lan Viên khá rộng.

    Cách mạng tháng tám thành công, đất nước bước vào chặng lịch sử mới, Chế Lan Viên cũng như hầu hết các nhà thơ lãng mạn của phong trào Thơ Mới cũng vào chặng sáng tác mới: tự nguyện biến thơ mình thành công cụ vận động đồng bào đánh giặc cứu nước. Nhà thơ lãng mạn nổi tiếng trở thành cây bút hiện thực dò tìm những bước đi đầu tiên. Nhiều trồi trụt và ấu trĩ. Nhưng hôm nay, sau hơn nửa thế kỷ với biết bao biến động của đường lối văn nghệ, đọc lại không thể không khâm phục ý chí vì đại nghĩa của lớp nhà thơ “tiền chiến” ấy. Tập thơ bao trùm giai đoạn sáng tác chín năm kháng chiến Gửi các anh là một tập thơ mỏng, ướm thử nhiều thủ pháp, cốt sao tải được hiện thực cuộc sống lẫn ý tưởng tác giả khi ấy. Khó có thể coi bài nào là hoàn chỉnh, nhưng lại hé cho thấy những khuynh hướng mới, sau này sẽ phát triển rõ trong Ánh sáng và Phù sa. Lối viết chính luận tung hoành trong các câu thơ rộng khổ ở các bài Cành phong lan bể, Tàu đến , Tàu đi đã được báo hiệu từ những thể nghiệm của bài Chào mừng ( viết năm 1950). Cũng như vậy, Đi ra ngoại ô thoát thai từ Trường Sơn. Và Kết nạp Đảng trên quê mẹ từ Đưa con ra trận. Điều đó chứng tỏ hướng tìm của Chế Lan Viên những năm kháng chiến chống Pháp là có ý nghĩa. Chúng ta hiểu thêm: ngay ở những nhà thơ tài năng, để chín trong một khuynh hướng sáng tác mới cần một lao động thơ bền bỉ hàng thập niên. So với thơ viết trước cách mạng, Gửi các anh ham ôm chứa hiện thực, đôi lúc thơ làm nhiệm vụ ký sự, đôi lúc thơ thuyết minh bình luận sự kiện quá đầy đủ và khô khan, nhưng có một bước phát triển bạn đọc cần ghi nhận là chính từ tập thơ này Chế Lan Viên bộc lộ khuynh hướng nâng cao phẩm chất trí tuệ cho thơ. Khuynh hướng này về sau thành một đặc sắc của Chế Lan Viên. Tư duy sắc sảo, huy động hình ảnh tạo nên những cặp phạm trù, những mạch nghĩ lôgic, đó là những công cụ mới thể hiện cảm hứng người viết và dẫn dụ cảm xúc người đọc. Hình ảnh khi tương phản: Việt Nam những ngày nguyên tử vẫn xông lên hàng đầu với gậy tầm vông, khi cộng hưởng, trùng điệp: Những thành phố lớn cưu mang trong lòng, những nhà máy lớn / Nhưng lớn lao thay là những người đã thắng được máy móc và để lại tên cho phố phường. Bản thân nó chưa thơ (suy tưởng lấn hình tượng) nhưng nó dẫn đến những nhận thức mới mẻ, bất ngờ.Đến thời Ánh sáng và phù sa, khi hình tượng thơ hoàn chỉnh, nó thành những câu thơ đúc kết chân lý:

    Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
    Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn

    Càng về sau hứng thú khi đọc thơ Chế Lan Viên càng thiên về hứng thú trí tuệ. Và từ trí tuệ mà nảy sinh tình cảm ở một chiều sâu mới. Bài thơ dựng lại con đường Hồ Chí Minh tìm đường cứu nước mang cái tên dài Người đi tìm hình của nước. Bản thân cái tên ấy là một câu thơ hàm súc. Hình tượng thơ nằm trong hình ảnh đi tìm hình của nước, nghĩa là tìm dạng thức tồn tại cho đất nước (Độc lập hay Liên hiệp? Cộng hoà hay Quân chủ?...). Cách nói ấy mang tính trí tuệ và trở thành tứ của bài thơ. Bài thơ kết thúc khi cái hình nướchiện ra, trong hòn đất Pac Bó được Bác Hồ nâng trên tay ngày trở về:

    Kìa bóng Bác đang hôn lên hòn đất

    Trong màu hồng hình đất nước phôi thai

    Ánh sáng và Phù sa xuất hiện năm 1960, trong mùa chín của các nhà thơ cách mạng đi từ phong trào Thơ Mới lãng mạn với các thi phẩm của Xuân Diệu (Riêng chung) Huy Cận (Trời mỗi ngày lại sáng) Tế Hanh (Gửi Miền Bắc) Lưu Trọng Lư (Toả sáng đôi bờ)...tạo một không khí sầm uất cho thơ, trong chừng mừng nào đã bộc lộ được mặt mạnh của khuynh hướng mở rộng cánh tay thơ ôm chứa lấy cuộc đời. Phẩm chất trữ tình mới và cả bút pháp thể hiện mới của Ánh sáng và Phù sa như một cú hích cho cả nền thơ Miền Bắc hồi ấy. Nhiều cây bút trẻ bị phong cách Chế Lan Viên thu hút. Từ đó cho đến khi mất, Chế Lan Viên đều đặn cho xuất bản Hoa ngày thường – chim báo bão (1967) Những bài thơ đánh giặc (1972) Đối thoại mới (1973) Hoa trước lăng Người (1977) Hái theo mùa (1977) Hoa trên đá (1984). Các tập thơ vận động trên cùng một trục thi pháp Chế Lan Viên, nhưng mỗi tập là một phát triển dung lượng chất chứa hiện thực: chuyện đánh giặc, chuyện đời thường.

    Thơ đánh giặc của Chế Lan Viên là thơ bình luận, tranh luận về phẩm chất anh hùng của cuộc chiến đấu, về lý tưởng cao cả và đức hy sinh to lớn của dân ta. Có thể nói trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, thơ Chế Lan Viên đã thành chỗ tựa tâm hồn cho người đánh giặc. Còn nhớ, những ngày đầu Miền Bắc chống không lực Hoa Kỳ ngay từ 5-8-1964, tin chiến sự như vang cùng thơ Chế Lan Viên, làm phấn chấn và thôi thúc lòng người. Tên sông tên núi gọi lên khi ấy thấm thía, xao xuyến biết bao nhiêu:

    Hãy yêu! Hãy yêu! Hãy yêu và bảo vệ
    Mây nước, cửa nhà, văn học, ngữ ngôn
    Một đảo vắng Hồn Ngư còn chớp bể
    Một rặng núi Kỳ Sơn từng lắm lúc mưa nguồn

    Tình cảm nhà thơ cộng hưởng với tình cảm toàn dân yêu đất nước. Suốt mười năm từ 1965 đến 1975, Chế Lan Viên đồng hành cảm xúc mình với cuộc chiến đấu thống nhất đất nước. Thơ ông vào trận, khi hào sảng âm vang như văn Hịch tướng sĩ thời Trần: Tổ Quốc bao giờ đẹp thế này chăng (1965) Con mắt Bạch Đằng, con mắt Đống đa (1966), Suy nghĩ (1966)... Khi bừng bừng căm giận, sôi sục anh hùng ca:

    Hãy may lấy cờ ta trong giận dữ
    Những lá cờ to gấp triệu núi sông ta
    Dẫu muốn sống không thể quỳ để sống
    Hái hoà bình xin hái giữa phong ba.

    khi lại mảnh mai thăm thẳm như cái nỗi nhớ mơ hồ một địa danh nhỏ nhoi bên kia vĩ tuyến, cái thành phố Sông Cầu, :

    Một trưa bình thường mắt không ngó tới

    Một đất bình thường xe ta qua mau
    Trả thù ta
    Bắt lòng ta nhớ mãi
    Sông Cầu ơi, sông Cầu...

    Ngày toàn thắng 30-4-1975, Chế Lan Viên công bố bài thơ dài Ngày vĩ đại, viết 3-5-1975, in tràn một trang nhật báo khổ to. Giọng thơ ào ạt như thuở nào Đại cáo Bình Ngô trúc chẻ ngói tan, thần tốc thắng giặc, những thương nhớ đau đớn âm thầm nén lại bấy nhiêu năm cắt chia, bom đạn như được ào ra trang giấy cười, khóc, xót thương, hả hê, hào hứng ...Vậy mà chưa đã, Núi sông lành chỗ cắt vẫn còn đau, hai tuần sau đó, vẫn thể thơ ấy, một bài dài gần gấp đôi xuất hiện, sâu lắng thâm trầm hơn, cảm nhận trở lại những gì dân ta, cả phía bên này lẫn phía bên kia, đã cắn răng chịu đựng Đau sông nước muôn phương thân vạc thân cò. Dung lượng bài thơ đủ cho tác giả bình luận mọi lĩnh vực. Chỗ tình cảm đằm thắm, có chỗ lại lý sự, tranh luận. Cái thế tranh luận của người chiến thắng, bút pháp tung hứng nhưng cũng rất dễ tự say lời.

    Thơ đời thường, trong đó có thơ tình yêu, ở Chế Lan Viên rất phong phú. Cũng để dễ nói thì chia ra như thế. Thực tế, đánh giặc đã là chuyện đời thường rồi, đề tài nọ vốn lồng vào đề tài kia . Xếp hàng mua gạo, mua vải hẳn phải là chuyện thường ngày, nhưng cũng là chuyện đánh giặc, là tư thế đánh giặc;

    Một triệu quân giặc rối bời như canh hẹ
    Ở đây ta xếp hàng

    Chế Lan Viên nắm bắt rất nhanh những chủ đề thơ của các sự kiện, các hiện tượng, thậm chí của một nét tâm lý thoáng qua. Bài thơ nào cũng như một chiêm nghiệm xử thế, sức khái quát sâu, mà cảm động:

    Lòng rất là vô lý
    Mừng hoa sữa vào thu
    Lại tiếc hè qua vội
    Chưa kịp hái sen hồ

    Lòng người “tham” là vậy. Ta trải qua mà không để ý. Với Chế Lan Viên, nó đọng lại, nó khuyên ta được những điều xa hơn, rộng hơn chính nó. Có bài, do kiểu tư duy thơ của Chế làm hiện thực bật ra tình huống thơ. Tiếng chim ở Vĩnh Linh sau ngày Mỹ ngừng bom, ngoại cảnh chỉ có thế, nhưng nội tâm nhà thơ đi qua gian lao của chiến tranh, đã tạo nên tình thế xúc động thơ:

    Bốn năm đạn lửa chim bay hết
    Nay tiếng bom im cánh biếc về
    Tiếng hót đầu tiên, ơ lạ lắm!
    Cả làng rưng lệ đứng im nghe

    Câu cuối là của lòng nhà thơ tạo thêm cho hiện thực. Chế Lan Viên ngay cả những bài thơ phục vụ kịp thời cũng không có câu thơ non lép. Ông kỹ càng câu chữ. Gần như bài nào cũng có yếu tố sáng tạo. Người ta yêu tứ thơ của ông, và yêu cả ngôn ngữ, đặc biệt âm điệu câu thơ. Tiếng chim cu gù sau ngày đình chiến cũng trùng xương cốt chủ đề với chim biếc Vĩnh Linh, nhưng phập phồng da thịt cuộc sống xa, gần, xưa, nay. Âm điệu ngắn dài đứt nối vắt qua các câu thơ, như liền lại như đứt, mô phỏng tiếng chim cu gáy những trưa quê rất khêu gợi:

    Hồn đất nước bâng khuâng theo tiếng chim dân dã
    Như chửa nghe bao giờ. Mà như đã
    Nghe rồi. Tự đâu thời xa xửa xa xưa.

    Hai vế đề tài Hoa ngày thường và chim báo bão trong thơ kháng chiến chống Mỹ và mươi năm sau đó của Chế Lan Viên luôn luôn phát triến song hành. Biên độ cảm xúc rộng, bút pháp biến hoá, có lúc kết hợp cả trào phúng.

    Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến luỹ.

    Hình ảnh ấy, trước hết, hợp với chính Chế Lan Viên. Không chỉ vì thơ ông có mặt kịp thời trong những khoảnh khắc thử thách ngặt nghèo của cuộc chiến mà còn ở tầm vóc và tư thế cảm xúc. Ông là người chủ lực trong cả nền thơ, tạo nên mạch trữ tình lịch sử, trữ tình của những sự kiện lớn. Cảm xúc choán những biên độ rất rộng Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào Cửa Bắc đến Văn Chiêu hồn từng thấm giọt mưa rơi. một đầu là lịch sử, đầu kia đã là thân phận con người. Cả hai hình ảnh đều rất gợi cảm, gợi nghĩ ngợi. Nhiều nhà nghiên cứu gọi Chế Lan Viên là nhà thơ trí tuệ ( dù ông không thích, nó như anh đeo kính gọng vàng! ) có lẽ là do đặc tính ôm trùm rộng xa và uyên bác này.

    Kinh nghiệm một nhà thơ lớn cho ông biết cái cách chuyển thơ trên đại lộ rất dễ thiếu đi sắc hoa hương cỏ của những lối mòn quanh quất, nhỏ mà rất thơ. Hướng Hoa ngày thường luôn được ông để tâm khai thác. Chế Lan Viên tận dụng tứ tuyệt để viết ngay, viết gọn những thoáng gặp thơ hồn nhiên, không để cái thói quen “tư tưởng hoá” kịp ập vào

    Quên mất mình vừa sáu chục
    Mở trang giấy rộng viết dài
    Gương nhắc mái đầu chớm bạc
    Lại làm có bốn câu thôi

    Ông nhớ căn phòng ở sứ Việt nước người trong mấy đêm tá túc cũng như từng chợt nhớ: nhớ nhà cha mẹ, cảnh trường xưa...Những cái nhớ không đâu, những cái buồn không định... ông đều đánh dấu vào thơ. Có khi nghĩa thơ chưa sâu nhưng nghĩa đời lại nặng, những câu thơ nhỏ cho thấy đời một nhà thơ lớn:

    Còng lưng tưới nước , vạt rau khô
    Bơm hỏng mà đâm khổ cả nhà
    Đêm ngủ chỉ lo toàn vật giá
    Xa dần truyện ngắn, bớt dần thơ

    Xa dần truyện ngắn là bà Vũ Thị Thường, vợ ông, bớt dần thơ là ông muốn diễu mình. Dọn vào thành phố Hồ Chí Minh, ông không xin nhà, tự bỏ tiền mua một căn nhỏ trong hẻm. Ít lâu sau, bán đi , mua một căn có vườn, tít ngoài Tân Bình. Nhà một tầng, cây ăn quả xung quanh. Ông thích lắm, đặt tên chữ Hán cho sang Viên tĩnh viên. Nhưng đất phèn, cây không lên được. Cái ý định tự trồng lấy rau mà ăn xem ra cũng không dễ. Bài thơ trên viết năm 1985, cuộc sống vật chất toàn dân đều khó. Tôi đến thăm, ông mặc bộ bà ba nâu, đi chân đất, dẫn đi thăm cây, nói về đất phèn và giảng Nam Hoa Kinh. Năm (1986), Khi nhà xuất bản Văn Học phát hành Tuyển tập Thơ Chế Lan Viên 400 trang, ông hào hứng viết thư: thế là mình xây xong mộ cho mình rồi. Bây giờ còn ngày nào, mình nằm gác chân lên cửa sổ nhà mình, muốn viết gì thì viết. Lắng nghe trong câu nói tếu táo ấy, một mong muốn thầm lặng của ông, hình như ông còn nhiều thứ phải đợi xong nghĩa vụ với đời mới viết cho mình. Hôm đọc trên báo bài Cờ lau Đinh Bộ Lĩnh (1988), qua tâm sự ông vua, đã thoáng thấytâm sự ông nhà thơ:

    Đã lâu ta không nghe hồn lau gọi nữa
    Xa tiếng gió xạc xào ?
    Xa mùi bùn, mùi trâu, rơm rạ ?
    Chỉ nghe danh vọng ầm ào ? Vinh quang xí xố.

    Câu cuối cùng ở bài thơ ấy, khi ông vua Đinh kêu lên: Hồn ta ở đâu?. Ta nghe thấy khát khao của nhà thơ Chế:

    anh ấy Điêu Tàn, anh ấy Phù Sa
    anh ấy đọc hồn trời, hồn đất
    câu cuối cùng hỏi đâu hồn ta
    (thơ Vũ Quần Phương, trang45,

    Vết thời gian, Văn học-1996)

    (còn tiếp)
    Last edited by phale; 07-08-2009 at 01:54 PM.

  6. #16
    Diamond Member PhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucket
    Ngày gia nhập
    May 2009
    Bài viết
    8.176
    Thanks
    301
    Thanked 3.169 Times in 588 Posts

    Default Ðề: Tìm hiểu thế giới thi nhân....

    Hai mươi năm ngày mất nhà thơ lớn Chế Lan Viên
    Vũ Quần Phương

    Trong tập Hoa trên đá (1984), Chế Lan Viên cũng đã quay lại với giọng nhỏ trữ tình riêng tư, như hồi nào ông viết Ánh sáng và Phù sa. Tập trước, 1960, đánh dấu sự chuyển hướng thành công, từ chân trời một người đến chân trời mọi người. Tập sau, một phần tư thế kỷ đi qua, là sự kết tinh một đời thơ, thu ngoại giới vào hồn mình, thành hồn mình. Hoa trên đá là một mốc chuyển đáng lưu ý của Chế Lan Viên. Chủ thể cá nhân bộc lộ khá nhiều mà không cá nhân chủ nghĩa:

    Đời ngoài tuổi năm mươi
    Mong gì hương sắc lạ
    Mọc chùm hoa trên đá
    Mùa xuân đâu chịu lùi

    Nông nỗi cá nhân, mà buồn nữa. Tình thế buồn nhưng người không cam phận.

    Chả bề nào khuây được bể đâu
    Trừ ra bể sâu hơn bể nữa
    Bể gây những cuồng phong bão tố
    Cũng để quên mình lỡ đã thẳm sâu

    Bi kịch nhưng cũng là cái giá phải trả cho sự biết, nhất là để biết mình. Rất nhiều bài thơ như tự vấn trở lại những cái ngỡ như đã biết, thậm chí, đã giảng cho người khác: lẽ nào, chẳng lẽ, ngỡ như...Một nhà thơ nổi tiếng là thông minh, uyên bác và hùng biện như sông Hồng sông Mã, gầm reo trong đạn lửa, lúc cao niên lại muốn im lặng mà lắng nghe tiếng thì thầm của con sông Thương nước mắt sông nhớ thương ai mà nước chảy đôi dòng. Thơ cảm động ở nỗi sâu nặng tình đời, như khi nghe cô gái xênh tiền:

    Chỉ là nhịp gõ ấy sao mà
    Em xoay tà áo thì ta khóc
    Khi thoảng ngang lòng tiếng í a

    Tâm hồn nhà thơ như yếu đuối hơn, ông nài nĩ với cuộc đòi:

    Nghe hết câu chèo đã, được không
    Vội gì trăm núi với ngàn sông
    Lặng đi một phút cho câu hát
    Cùng với mầu mây thấm tận lòng

    Cũng đề tài chiến tranh, sau rất nhiều bài thơ tung hoành như cáo, như hịch, như anh hùng ca giúp người đứng vững giữa đạn bom mà đánh giặc. Nay đất nước yên hàn, lòng ông lắng lại, cân lại những hy sinh Những giọt lệ khô rồi bây giờ lại nhỏ. Ông sống lại nỗi lòng người vợ đợi chồng: Đêm đối diện với ngọn đèn hạt đỗ. Ông xót xa trong đêm hò dấu nỗi đau từ tạ:

    Anh cúi mặt bên đèn khêu lại bấc
    Nước mắt nhỏ sau câu hò, em lấy tay che

    Ông không dấu vị đắng của lòng mình khi trở về quê cũ An Nhơn sau chiến tranh, sau thời chia cắt Chẳng lẽ thăm quê lại hỏi người. Có câu thơ thật thà như câu nói mà trong hồn vía nó có chiêm nghiệm của cả đời người:

    Ở đâu đong hạnh phúc chén đầy, đây chỉ chén vơi
    Một hạt tấm con no suốt một đời

    Bao nhiêu nỗi buồn của con người thời thơ tránh né, tránh né để lòng yên mà đánh giặc, Chế Lan Viên tự tin mà nhặt lại. Ngay nỗi buồn của lòng ông, kể cả cái tình thế cùng đường bị thời gian dồn đuổi Anh như ông vua Thục / Bị đưổi khỏi thời gian ông cũng không che dấu. Đó cũng là sự tự tin của cả nền thơ. Nỗi xúc động làm bừng tỉnh giữa cơn say ở làng Hung hay vị cay nhoè mắt khói củi sồi năm sơ tán làng quê ngoài Bắc, cỏ xanh ở Tháp Rùa hay lau trắng nơi biên giới...là những cảm xúc đã nâng thành trí tuệ, một cốt cách cổ điển mới của thơ hiện đại..

    Sau khi ông tạ thế, liên tiếp ba tập di cảo được xuất bản (1992, 1993, 1996), bạn đọc sửng sốt và vui mừng: một Chế Lan Viên khác, thực hơn, bạo hơn, gọn hơn, chắc hơn. Do vậy, mới hơn, trẻ hơn và rất lý thú là không hề cắt rời với thi pháp độc đáo Chế Lan Viên. Di cảo là những bài lúc sống, ông chưa đưa in. Chưa đưa in có lẽ vì ngần ngại năng lực tiếp thu của xã hội lúc đó.

    Ông quan niệm lại nhiều thứ. Nghệ thuật là ước lệ. Thực quá có là nghệ thuật không. Dễ mất thi vị lắm nếu cứ thẳng thừng gọi đúng tên mọi vật

    Để khỏi nhớ ơn, người ta bày ra chữ cám ơn
    Cám ơn, một lần, hai lần, thôi thế là rảnh nợ

    Bạo để được thực, nhưng bạo cũng lắm cái phiền. Thực ngay trong sự nhìn lại mình, vẽ ra chính mặt mình có khi lại bị chê là giả, vì người đời đã quen khuôn mặt giả mất rồi. Chế Lan Viên viết như bổ xung, như đính chính những điều đã viết. Nhiều cách nghĩ ta thấy lạ. Lạ với ông. Lạ cả với nền thơ. Nghĩ thế nào về đời, về thơ mà dẫn đến cách đánh giá chính mình như thế này:

    Ôi! Con đường không ra đường của kẻ tìm thơ
    Cái thơ không ra thơ của kẻ tìm đường

    Ông như tách khỏi mình mà khảo sát chính mình, ở cái chỗ người ta tưởng ông đắc ý lại là chỗ ông đã xót thương :

    Khi tôi cưỡi trên mây
    Thì máu người rên trên đất
    Mẹ hỏi tôi
    Con lên cao mà làm chi
    Mẹ ở dưới này cơ cực
    Về đi!

    Có người nghĩ Di cảo là thơ sám hối của Chế Lan Viên. Tôi không thấy thế. Di cảo chỉ là sự bổ xung. Chỉ nói nốt những điều trước kia tự ông dừng lại. Dừng lại không nói, chứ không phải không có nó trong lòng. Di cảo đi xa hơn nhưng vẫn trong hướng tìm của nhà thơ. Ông từng có bài thơ nói người tù Côn Đảo ban ngày trần mình ra chịu đòn thù đánh vào hồn vào xác, nhưng đêm về thì lấy trăng sao, hương gió mà nạp năng lượng cho trận chiến ngày mai. Bây giờ thấy ông còn có thêm đoạn ba này: là nói thế thôi, chứ đêm kẻ thù cũng chẳng để anh yên, cái cuộc đời ở đây phút giây nào chẳng phải căng ra mà chịu trận. Chế Lan Viên ở giai đoạn này, gắng nói gọn, nói hết những điều ông đã thấy, đã nghĩ, đã ngập ngừng. Quen tư duy bằng hình tượng, mọi điều nghĩ đã thành thơ phác thảo. Lúc này ông tước mọi uốn éo tài hoa mà thơ vốn có để nói bộp vào thực chất. Bài thơ ngắn đi, nhưng nghĩ ngợi nhiều, chìm sâu vào chiêm nghiệm.

    Chiêm nghiệm cái đời người.
    Chiêm nghiệm thơ.
    Chiêm nghiệm xã hội, chính trị, vua quan, các thứ chủ nghĩa...

    Thi pháp Di Cảo hiện đại hơn chính vì nó trình bày chất thơ để mộc từ trong lõi. Ông nói: các người đẹp, các vĩ nhân, các thi sĩ thiên tài thì tât cả đều có con nhặng xanh đón đợi. Ngay khi anh đang thơm tho với tuổi tên danh vọng, con nhặng xanh đã nhận ra cái mùi chung cục của anh rồi. Tốt cho anh là anh cũng phải nhìn ra nó sớm. Không phải chỉ tới những ngày trọng bệnh , mà thỉnh thoàng trong đời, ông lại ngẫm nghĩ về sự sống, về cái đời người:

    Ừ anh là sông trôi, là hạt móc
    Là tiếng khóc thất thanh. Nhưng anh lại
    Là người. Việc gì phải tủi .

    Không tủi mà còn thích thú nữa. Nhìn lại, có lúc ông tự trách:

    Được làm người khoái thế
    Vậy mà anh để hồn buồn và trán luôn cau.

    Ông đi thăm lò hoả táng, quan sát nó vận hành. Nghĩ đến chung cục đời người thấy nó ghê ghê. Nhưng ngẫm lại, đó cũng là công việc của đời thường, chuyên cần nhịp nhàng:

    Sáng đưa xác vào, trưa lấy xương ra
    Đều đặn như bánh vào lò
    Mỗi ngày hai suất
    Việc phải đến thì nó đến. Ông đã từng băn khuăn

    Ta đã nghĩ ra cái đẻ không đau
    Nhưng cái chết không đau thì chưa nghĩ tới.

    Rồi lại tự nhủ: mà nghĩ cũng chả để làm gì. Nào triết nào văn, nghe mãi nhức đầu. Trước cái cuộc hành trình nhẩn nha mà rất gấp của đời ấy, tốt nhất:

    Ta đạp lên siêu hình và bớt nghĩ về ta
    Thế là yên chuyện

    Căng mình chống chọi với trời đông, ngạo nghễ như cây thông cũng chỉ là một cách mà cứ mềm mại buông mình xào xạc với gió thu như cây lau lại là một cách khác, không phải không hay. Ông lại nói, như một đấu tranh giai cấp tính: lên voi thì xuống chó, nhưng lên mới đến chó thì xuống đến đâu. Kiểu lập tứ ấy giống như một lối chơi tu từ, nhưng ngẫm kĩ nó là chuyện đời bây giờ đấy chứ. Chua chát! Ừ thì chua chát, đời mà, mấy khi ngọt. Người ta nói dối nhiều nên vu cho chú Cuội tội nói dối mà phê phán để trốn được tội mình đi.

    Nói dối gì, Cuội thật biết bao nhiêu
    Thế hệ nào đến cũng gặp mày nguyên tại chỗ
    Chỉ kẻ nhìn lên trăng thì nói dối đủ điều

    Lúc là chú bé con , hét một tiếng trong Văn Miếu, nghe tiếng vang mà sợ, chạy. Lớn lên, nói trên Đài, hét trong sách lại thích thú chờ tiếng vang dội lại, có khi còn chạy đuổi theo. Nay cuối đời thèm yên tĩnh, nhìn xuống huyệt mình lại thấy có tiếng vang(!). Chế Lan Viên ưa nghĩ ngợi, thích phát hiện những ý tưởng thâm trầm ở những sự việc đã quá quen mòn, không ai còn để ý. Nhìn cái lá sen ngoài hồ lật theo chiếu gió, liên hệ với tâm trạng mình, ông cho nó một ý nghĩa triết học:

    Phía bên này lá sen là cuộc đời quá cũ
    Danh vọng, giấy tờ, bàn tủ
    Hoan hô và chửi rủa
    Thế mà lật lá sen hồ, bỗng chốc phía bên kia
    Bỗng chốc là mùi hương ở bên kia lá
    Là ánh trăng ở trong tiếng gió
    Là thì thầm ánh sao khuya
    Trong cỏ...
    Gọi anh đi

    Ông tự hỏi: ông đã viết câu thơ cổ vũ hai nghìn người đêm ấy ra trận, chỉ ba mươi người về:

    Một trong ba mươi người kia ở mặt trận về sau mười năm
    Ngồi quán bên đường nuôi đàn con nhỏ
    Quán treo huân chương đầy, mọi cỡ
    Chả huân chương nào nuôi được người lính cũ!
    Người lính cần một câu thơ giải đáp về đời
    Tôi ú ớ
    Người ấy nhắc những câu thơ tôi làm người ấy xung phong
    Mà tôi xấu hổ

    Con người thông minh và giàu lãng mạn, thuở đầu đời phóng ra xa tới siêu thực, cuối đời rút vào cốt lõi hiện thực, gạt đi mọi trang trí để lần ra thực chất đời người.

    Thực chất cái goi là sự “bất tử”:
    Có nhà thơ để lại bộ lông vằn tên tuổi
    Các thế hệ sau đến độn vào đấy rơm và danh vọng
    Thậm chí thêm cho con vật chết khô
    Cả một tiếng gầm.

    Thực chất cái chết, nó đã alô cho ông rồi, sỗ sàng, thẳng thừng. Thì nó sợ ai:

    A lô! Nói gì nói nhanh lên
    (...) Và nhìn gì thì nhìn đi
    Không ai bịt mắt
    Mà cũng đừng nhắm mắt
    Nói lên vắn tắt
    Rồi đi

    Nhưng thực chất thơ. Ông nói tới đủ điều, ví với nhiều công việc. Mà vẫn như chưa vào thực chất thơ. Ông là nhà thơ nghiền ngẫm về chuyện làm thơ nhiều nhất. Những bài nói về nghề bằng văn xuôi, những chương nghĩ về thơ bằng thơ sâu sắc, tài tình. Giờ đây, thời gian kíp lắm rồi, ông vẫn lật đi lật lại, mê mải nói thêm. Ông so thi sĩ với hòn đá tảng, thơ nói ra (ở người) và thơ nén vào thành lửa (ở đá), cái nào hơn? Ông nhận ra cái không hoàn toàn mới là cái còn tiến hoá. Ông chấp nhận nghich cảnh: nụ hoa hồng vừa nhú tươi non trên cành ông khô nhựa. Ông biết quy luật của nghề:

    Ta là ta mà luôn luôn bối rối
    Tìm lại ta
    Đi tám cõi mười phương rồi mới tìm ra
    Nó ở trong nhà

    Hơn bảy trăm bài thơ Di cảo là một cách dùng quy luật nghề để vượt lên nghịch cảnh. Ông đã thắng. Chỉ riêng với Di cảo thôi đủ tạo dựng sự nghiệp một nhà thơ lớn.

    Nguồn: Hoinhavanvn

  7. #17
    Diamond Member PhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucket
    Ngày gia nhập
    May 2009
    Bài viết
    8.176
    Thanks
    301
    Thanked 3.169 Times in 588 Posts

    Default Ðề: Tìm hiểu thế giới thi nhân....

    Bàng Bá Lân, Thơ như tiếng sáo diều (1)
    Hòai Anh

    Bàng Bá Lân nguyên họ Nguyễn Xuân, mới đổi ra họ Bàng đến Bàng Bá Lân là ba đời. Quê gốc ở làng Đôn Thư, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Sinh tháng 11 năm Nhâm Tý (tháng 12-1912) tại phố Tân Ninh, phủ Lạng Thương, tỉnh Bắc Giang. Dòng dõi nhà nho nên biết làm thơ từ nhỏ. Đã xuất bản những tập thơ Tiếng thông reo (1934), Xưa (chung với Anh Thơ, 1941), Thơ Bàng Bá Lân (1957), Tiếng võng đưa (1957).

    Trong Thi nhân hiện đại (1941), Hoài Thanh viết: “Bàng Bá Lân không có cái tỉ mỉ của Anh Thơ, không nhìn đủ hình dáng đời quê như Anh Thơ. Anh Thơ có khi nhìn cảnh không mến cảnh. Bàng Bá Lân có khi lại mến cảnh quên nhìn, nhưng nếu đã lưu ý đến cảnh nào, Bàng Bá Lân thường lưu ý đến cảnh ấy - như khi người tả cảnh một buổi sáng

    Cổng làng rộng mở. Ồn ào
    Nông phu lững thững đi vào nắng mai

    Ta thấy rõ người mến cảnh ấy lắm: lòng người cũng mở rộng với cổng làng và cùng vui với nông phu trong nắng sớm.

    Bởi thế có lúc con người đã cảm được hồn quê vẫn bàng bạc sau cảnh vật. Tôi không biết làm thế nào nói cho ra điều ấy. Âu là cứ trích ít câu thơ của Bàng Bá Lân:

    Quán cũ nằm lười trong sóng nắng
    Bà hàng thưa khách ngủ thiu thiu
    Nghe mồ hôi chảy đầm như tắm…
    Đứng lặng trong mây một cánh diều

    Cả cái hồn lặng lẽ ngây ngất của đồng quê dưới nắng trưa như ngưng lại trong mấy câu ấy.

    Một lần khác, tả trưa hè trong gian nhà tịch mịch, người viết:

    Bụi nằm lâu choán xà nhà
    Nhẹ nhàng rơi phủ bàn thờ buồn thiu.

    Mười bốn chữ, chữ nào cũng mang nặng một chút hồn. Thiết tưởng người ta không thể đi sâu vào cảnh vật xứ quê hơn nữa.

    Ấy cũng vì Bàng Bá Lân sau khi hấp thụ ở thành thị nền học khá liền về ở nhà quê luôn. Người sống cuộc đời thong dong một ông chủ trại, thì giờ làm ruộng ít hơn là để làm thơ. Chuyện mộng của nhiều người với Bàng Bá Lân đã thành chuyện thực. Có nhiều người thanh niên làm gì thì làm vẫn ao ước thú điền viên, cái thú thân yêu của nhà nho ngày trước. Họ không đủ sống lam lũ như người dân quê thực. Nhưng thành thị thì họ chán ghét lắm rồi. Họ tức tối mỗi lần nghĩ đã đưa giọt máu trong sạch và cường tráng của ông cha đến nơi hẹn hò của bệnh tật, của tội lỗi”.

    Theo tôi, không phải Bàng Bá Lân về sống ở nhà quê, nên cảm được hồn quê. Anh Thơ cũng sống ở Phủ Lạng Thương cùng với Bàng Bá Lân, còn Đoàn Văn Cừ thì cho đến khi xảy ra kháng chiến chống Pháp vẫn sống ở nông thôn, mà sao không tả được hồn quê như Bàng Bá Lân. Ta phải tìm câu trả lời ở mặt khác. Đó là phong cách của mỗi nhà thơ. Thơ viết về nông thôn của Đoàn Văn Cừ ít nhiều mang tính chất tả thực khách quan, gần với trường phái Thi sơn của Pháp, còn thơ viết về nông thôn của Bàng Bá Lân nhiều tính chất trữ tình chủ quan, gần với trường phái lãng mạn.

    Trong bài phỏng vấn Bàng Bá Lân của Nguyễn Ngu Í trên tạp chí Bách Khoa CXI, khi được hỏi:

    - Sáng tác để làm gì? Để cho mình hay cho thiên hạ? Để cho bây giờ hay cho mai sau?

    Bàng Bá Lân trả lời.

    - Chính vì câu hỏi mở đầu này mà tôi chậm trả lời để anh phải nhắc nhở, hỏi lại nhiều lần, vì tôi chưa bao giờ nghĩ đến việc sáng tác để “cho thiên hạ và cho mai sau”. Đó là một cao vọng vượt ra ngoài tầm tư tưởng của tôi. Có thể nói rằng, cũng như chim ca hót, ve than nắng, cuốc kêu hè, dế nỉ non khi hoàng hôn xuống… và nếu bị cấm làm thơ thì tôi khổ sở vô cùng.

    - Sáng tác theo một đường lối nhất định nào hay là tùy hứng?

    - Nói đường lối nhất định nghe có vẻ chính trị hoặc khoa học quá! Nhưng thật ra thơ tôi thiên về một hướng: ấy là nông thôn. Có lẽ tại tuổi thiếu thời tôi đã sống nhiều ở thôn quê; những cảnh vật cùng nếp sống của người quê đã in sâu vào trí não tôi nên về sau dù ở đâu tôi cũng vẫn không quên được mái đình cong cong, cây đa cô độc, ngõ tre thăm thẳm, đám mạ xanh rờn, đồng lúa vàng hoe, cùng những buổi nắng sớm mưa chiều, trưa hè oi nồng, đêm đông lạnh giá với mùa cấy, mùa gặt vất vả nhưng đông vui vang rộn giọng nói lời ca chan chứa tình thương mộc mạc…

    Những cảnh vật đó cứ ám ảnh tôi hoài, bắt tôi phải nghĩ tới, nhớ tới chúng. Vì thế hình ảnh chúng choán khá nhiều chỗ trong thơ tôi. Có thể nói rằng, tôi làm thơ phần nhiều là để được sống lại những tháng ngày mộc mạc êm đềm đã qua bên bờ tre ruộng lúa.

    - Những gì đã xảy ra trong tâm trí và trên trang giấy của tác giả từ khi tác phẩm bắt đầu thai nghén cho đến lúc nó thành hình?

    - Với tôi không có gì “xảy ra trên trang giấy” cả, vì trong lúc làm thơ tôi ít khi viết ra. Phần nhiều những bài thơ của tôi được cấu tạo và thành hình trong trí não. Gần xong hoặc xong hẳn mới viết ra. Và khi đó chỉ còn việc sửa chữa ít lời chưa hay chưa ổn mà thôi.

    - Xin cho biết những kinh nghiệm sống?

    - Khi có một ý tưởng, một tứ thơ cần được thể hiện, tôi thường nghĩ luôn luôn đến nó như một ám ảnh. Có khi làm xong ngay, có khi kéo dài hàng tuần, hàng tháng chưa rồi! Tôi làm thơ bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào: khi đang đi dạo trên đường phố, lúc giữa hai giờ dạy học (đôi khi cả lúc đang “chạy trường”), khi đang đọc sách, đọc báo… Nhưng thường thì về ban đêm, khi đi nằm thao thức chưa ngủ được và lúc sáng sớm tỉnh dậy. Những giờ phút này với tôi, là thời gian sáng tác nhiều nhất.

    Tôi làm thơ tuy là tùy hứng, nhưng cũng tùy cả ý chí mình nữa. Kinh nghiệm cho tôi hay rằng: có tứ rồi mà quyết chí làm xong thì phải xong. Trái lại, thì bỏ dở dang, kéo dài vô tận!

    Thơ tôi làm xong, thường chỉ phải sửa đổi, gọt giũa rất ít. Có khi sửa xong ngay, nhưng thỉnh thoảng cũng gặp phải những chữ chưa ưng ý, mà nghĩ mãi không đổi được, nếu không có sự may mắn tình cờ. Tỉ như trường hợp sau đây:

    Năm 1941, tôi cho xuất bản tập thơ “Xưa”, trong đó có một bài thơ ngắn về bức tranh thủy mặc Tàu cổ của ông tôi, nhan đề là “Bức tranh xưa”.

    Non cao suối bạc tuôn dòng
    Một cầu nho nhỏ, đường cong mép đồi
    Nhà sơn ba túp lôi thôi
    Rừng xa xào xạc gọi đôi chim về
    Lối mòn hun hút chân đê
    Xe trâu lọc cọc bánh kê gập ghềnh
    Dặm xa lẽo đẽo một mình
    Đổi vai khăn gói chạnh tình tha hương.

    Có một chữ tôi chưa ưng ý: đó là chữ đổi ở câu cuối, vì tôi thấy nó thật thà quá, thiếu chất thơ! Nhưng nghĩ mãi mà không tìm được chữ khác hay hơn để thay thế, nên đành phải để vậy cho in mà lòng riêng vẫn hằng tấm tức? Tháng năm qua. Mãi đến năm 1945, Hội Trí Đức Dục Thanh Bình, nhân dịp khánh thành thư viện mới, mời tôi xuống diễn thuyết về vấn đề văn học (do nhà sách Minh Đức làm trung gian). Thế rồi, trong một bữa tiệc đầy đủ mặt thân hào, nhân sĩ, văn nghệ sĩ đất Thái, cô Anh Thơ (hồi đó ở Thái Bình) bị mời ngâm thơ. Trong số mấy bài thơ cô ngâm, có bài “Bức tranh xưa” mà câu cuối cùng cô đã ngâm rằng:

    Dặm xa lẽo đẽo một mình
    Trở vai khăn gói chạnh tình tha hương!

    Tôi giật mình, mừng rỡ. Cái chữ rất thường ở ngay trước mặt, ngay đầu lưỡi, thế mà tôi đã bận trí tìm tòi hơn bốn năm ròng không ra.

    Tiệc tan tôi hỏi thử Anh Thơ:

    - Trong bài thơ của tôi mà cô ngâm, có một chữ lầm! Cô có biết không!

    Nghĩ vài giây, nữ thi sĩ quả quyết trả lời:

    - Không

    - Cô nhớ lại câu cuối xem!

    Anh Thơ vẫn quả quyết:

    - Nhất định không lầm chữ nào!

    - Có! Chữ “đổi” … Đổi vai khăn gói… cô đã tự ý sửa hay hơn là trở vai khăn gói.

    - Anh nói đùa! Từ trước đến nay tôi vẫn nhớ và vẫn ngâm như thế mà! Từ đấy rút kinh nghiệm vừa kể, mỗi lần gặp một chữ bí miễn cưỡng mà chưa tìm ra chữ gì thay thế, tôi thường đọc cho bè bạn có khi cả con cháu trong nhà nghe, hi vọng gặp lại sự tình cờ may mắn trên, may mắn không kém gì nhà thơ Malherbe (1555-1626) với bài thơ “Stances à du Perier” vậy*

    Trong bài viết về Anh Thơ trong cuốn Vài kỷ niệm về mấy Văn thi sĩ hiện đại (Xây dựng, Sài Gòn), Bàng Bá Lân viết:

    “Lúc Anh Thơ đến, tôi đang chép lại bài “Bà đồ” mới làm xong. Anh Thơ xem và thích lắm, đòi coi tất cả những bài khác, rồi hỏi tôi bao giờ cho in Tôi trả lời:

    - Cái đó còn tùy, vì một tập thơ ít ra cũng phải có chừng 25 hoặc 30 bài, mà tôi mới sáng tác được hơn mười bài, lại phải còn chọn lọc nữa chứ.

    Tác giả “Bức tranh quê” liền đề nghị: Để cho tập thơ chóng hoàn thành và nếu tôi không thấy gì trở ngại, cô sẵn sàng hợp tác vì cô cũng rất mến yêu người xưa cảnh cũ và cũng đã có làm vài bài rồi. Và cô đọc cho tôi nghe bài thơ “Vườn xưa”. Tôi thấy bài ấy rất được, nên thuận để cô hợp tác.

    Chỉ mấy ngày, cô đã đem lại một số bài khiến tôi không khỏi ngạc nhiên về sự mẫn tiệp đó. Tiện đây tôi tưởng cũng nên tiết lộ để bạn đọc rõ lối sáng tác thơ khá đặc biệt của tác giả Bức tranh quê. Nhà thơ này không sáng tác như phần đông thi sĩ khác. Khi một đề tài nảy ra trong trí, Anh Thơ phải ngồi vào bàn, trải giấy ra trước mặt, tay cầm bút rồi viết viết xóa!...thì ý thơ mới ra, lời thơ mới tới. Nghĩa là cô làm thơ như người ta viết văn. Với Anh Thơ, không có chuyện “xuất khẩu thành thi”! Nhưng cũng không cần phải chờ đợi cảm hứng.

    Với lối làm việc này, tác giả lại chịu khó thì tưởng sự sáng tác mau lẹ của cô cũng không lạ vậy.

    Vì thế, tháng 11 năm đó (năm 1941-NV) thi phẩm Xưa đã in xong và bắt đầu phát hành”.

    Trong tập Xưa có 15 bài của Bàng Bá Lân và 10 bài của Anh Thơ (mà nhà thơ làm xong trong có mấy ngày), qua mảng ký ức này, ta thấy Anh Thơ không đợi cảm hứng. Khi làm thơ phải viết ra giấy và viết rất nhanh. Trong khi Bàng Bá Lân phải chờ cảm hứng, nhẩm trong trí cho đến khi hoàn thành mới viết ra giấy và viết rất lâu.

    Dưới đây thử so sánh bài thơ Trưa hè của Bàng Bá Lân với bài thơ Trưa hè của Anh Thơ, để thấy được sự khác nhau giữa hai phong cách thơ:

    Anh Thơ: Các bà già đưa võng hát, thiu thiu

    Bàng Bá Lân: Quán cũ nằm lười trong sóng nắng

    Bà hàng thưa khách ngủ thiu thiu

    Anh Thơ: Hoa lựu nở đầy một vườn đỏ nắng

    Bàng Bá Lân: Cành thưa, nắng tưới chim không đứng

    Quả chín bâng khuâng rụng trước hè

    Anh Thơ: Gió nồm nam lộng thổi cánh diều xa

    Bàng Bá Lân: Đứng lặng trong mây một cánh diều

    Anh Thơ: Nhưng thỉnh thoảng tiếng nhạc đồng buồn tẻ

    Của vài người cưỡi ngựa đến xua ngay

    Bàng Bá Lân: Nhạc ngựa đường xa rắc tiếng đồng

    Anh Thơ: Những đĩ con ngồi buồn lê bắt chấy

    Bên đàn ruồi rạc nắng hết hơi kêu

    Bàng Bá Lân: Ve ve rung cánh ruồi say nắng

    Vài cô về chợ buông quang thúng

    Sửa lại vành khăn dưới bóng tre.

    (còn tiếp)

  8. #18
    Super Moderator PhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucket
    Ngày gia nhập
    May 2009
    Bài viết
    6.045
    Thanks
    3.717
    Thanked 3.039 Times in 1.244 Posts

    Default Ðề: Tìm hiểu thế giới thi nhân....

    Pha Lê ơi, bài viết chọn màu chữ đỏ đọc nhức mắt quá em à!

  9. #19
    Diamond Member PhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucket
    Ngày gia nhập
    May 2009
    Bài viết
    8.176
    Thanks
    301
    Thanked 3.169 Times in 588 Posts

    Default Ðề: Tìm hiểu thế giới thi nhân....

    Bàng Bá Lân (tiếp theo và hết)
    Hòai Anh

    Ta thấy:

    - Cái nhìn của Anh Thơ thường là hướng nôi

    - Cái nhìn của Bàng Bá Lân thường là hướng ngoại

    - Cảnh của Anh Thơ được nhìn bằng quan sát tinh tế

    - Cảnh của Bàng Bá Lân thường vương một chút hồn

    - Anh Thơ thuộc trường phải tả chân

    - Bàng Bá Lân thuộc trường phái lãng mạn

    - Cách viết của Anh Thơ trẻ trung, ngộ nghĩnh (Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa)

    - Cách viết của Bàng Bá Lân chín chắn, già dặn (Nằm mát đàn trâu ngẫm nghĩ nhai).

    - Anh Thơ viết theo kiểu thơ Pháp, chú trọng đến ngữ pháp.

    - Bàng Bá Lân viết theo kiểu thơ cổ, hàm súc, kín đáo.

    - Thơ Anh Thơ thường kết đột ngột, như chấm dứt một cảnh điện ảnh.

    - Thơ của Bàng Bá Lân thường có những câu kết bâng khuâng, gợi cảm, như trong bài “Trưa hè”:

    Bài thơ hết mà vẫn để lại dư âm man mác, có sức lay động tâm hồn người. Ở phương diện này, Bàng Bá Lân có chỗ gần gũi với Đoàn Văn Cừ, như trong bài Đêm hè, Đoàn Văn Cừ viết:

    Thời gian dừng bước trên đồng vắng
    Lá ngập ngừng sa nhẹ dưới ao
    Như mơ đường khói lên trời nắng
    Trường học làng kia tiếng trống vào.
    Tiếng ốc trên chòi rúc thiết tha
    Gió lay cót két rặng tre già
    Sao trời từng chiếc rơi thành lệ
    Sương khói bên đồng ủ bóng mơ.
    Gió bỗng thổi ào, mây thấp tối
    Buồm căng cuốn rách, nước trôi nhanh.
    Trên đường cát bụi vàng theo gió
    Nón mới cô kia lật nửa vành.
    Ếch gọi nhau hoài tự mấy ao,
    Trên bờ cây hoảng hốt lao xao.
    Đò ngang vội vã chèo vô bến,
    Lớp lớp tràn sông đợt sóng rào
    Buồn rơi, trơ lại cột tre gầy,
    Loang loáng chân trời chớp xé mây
    Chim lẻ vội vàng bay nhớn nhác,
    Mưa gieo nặng hạt xuống sông đầy.

    Bài Mưa sông của Bàng Bá Lân cũng có được sự nhuần nhuyễn, cô đọng như vậy:

    Nếu bài thơ Cổng làng đã mở ra cả một khung trời cao rộng thì đến bài Đêm ở làng, tác giả đã khép lại cái khung trời ấy:

    Chùa xa chuông khóc ngày tàn
    Chiều như muôn dải lụa vàng thướt tha
    Lưng trâu mục tử vang ca
    Lời thơ tự mấy đời qua lưu truyền
    Vừa nghe tắt giọng êm đềm
    Ngọn tre treo mảnh trăng liềm mới lên
    Mấy cô hàng xén về đêm
    Dưới cây đòn gánh cong mềm bước mau.
    Làng tre cổng kín từ lâu
    Trong sương chó sủa bớt mau. Im dần…
    Trời khuya trăng thức tần ngần
    Lòng tơ bao gái cũng gần như trăng.

    Sau đó, có lẽ do ảnh hưởng thời cuộc, Bàng Bá Lân đã chuyển sang khuynh hướng tả thực, gần với Đoàn Văn Cừ, như trong bài Mùa gặt:

    Trời tang tảng. Sương đào bay lớp lớp,
    Cánh đồng quê mờ ngợp khói sương mơ,
    Từ cổng làng, từng bọn kéo nhau ra,
    Tiếng quang cặp, đòn cân va lách cách.
    Họ vui vẻ đi nhanh trên đường đất,
    Rồi tạt ngang tản mát khắp đồng quê.
    Họ dừng chân bên ruộng ướt sương khuya,
    Lúa rạp rạp ngả theo chiều gió thổi.
    Thợ đàn ông xắn quần lên quá gối,
    Thợ đàn bà cao váy xếnh hai bên
    Để lộ ra những cặp bắp chân đen.

    ***

    Rồi hơ hải người liềm xô xuống ruộng
    Lúa thức giấc xạc xào trong hỗn độn,
    Lúa run run lìa cuống ngã trên tay…
    Lũ cào cào, châu chấu sợ tung bay,
    Nhưng chớp mắt lại nặng nề rơi xuống
    Liềm hái gặt. Lúa thi nhau lìa cuống
    Nằm ngổn ngang trên ruộng trở màu đen.
    Phía trời đông quạt lửa rộng xòe lên,
    Cánh đồng bỗng rực tươi màu đỏ ối.
    Sương mỏng mỏng nhẹ tan như làn khói,
    Lúa thơm thơm rơm mới cũng thơm thơm
    Không khí thơm theo gió chạy rập rờn
    Làm gợn gợn sóng vàng trên biển lúa…

    Trong bài này có những câu phảng phất thơ Đoàn Văn Cừ.

    Bàng Bá Lân:

    Trời tang tảng. Sương đào bay lớp lớp

    Đoàn Văn Cừ:

    Ngày ửng hồng sau màn sương gấm mỏng

    Bàng Bá Lân:

    Họ vui vẻ đi nhanh trên đường đất

    Đoàn Văn Cừ:

    Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc

    Bàng Bá Lân:

    Cánh đồng bỗng rực tươi màu đỏ ối
    Sương mỏng mỏng nhẹ tan như làn khói

    Đoàn Văn Cừ:

    Sương trắng rỏ đầu cành như giọt sữa
    Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa..

    Bàng Bá Lân:

    Chùa đâu đó rỏ hồi chuông lanh lảnh

    Đoàn Văn Cừ:

    Khi chuông tối bên chùa văng vẳng đánh

    Ta thấy lời thơ của Bàng Bá Lân thật thà, vụng về hơn Đoàn Văn Cừ nhưng lại thể hiện được những khía cạnh thôn quê mà Đoàn Văn Cừ trước đây chưa nhìn thấy, đặc biệt là chủ đề lao động sản xuất.

    Cảnh người kéo cày thay trâu cũng được Bàng Bá Lân phản ảnh trong bài Người trâu làm ở Đôn Thư năm 1945:

    Trong thửa ruộng chân đê tràn ngập nước
    Đôi bóng người đang chậm bước, đi đi
    Người đàn ông cúi rạp bước lầm lì
    Người vợ cố đẩy bừa theo sát gót
    Họ là những nông phu nghèo bậc chót
    Không có trâu nên người phải làm… trâu
    Họ bừa ngầm một thửa ruộng chiêm sâu
    Nước đến bụng ôi rét càng thêm rét.
    Áo rách tướp hở ra từng miếng thịt
    Tím bầm đen trong giá lạnh căm căm
    Hì hục làm thỉnh thoảng lại dừng chân
    Véo và ném lên mặt đường từng vốc
    Nhát trông ngỡ là nắm bùn hay đất
    Nhìn lại xem! Ồ đống đỉa đen sì,
    Ta rùng mình quay mặt bước chân đi
    Lòng tê tái một mối sầu u ám.

    Đến bài thơ Đói tả cảnh đói năm 1945, với những chi tiết đặc tả trần trụi, gợi nhớ đến những tấm ảnh thời sự có giá trị lịch sử của nhà nhiếp ảnh Võ An Ninh cũng về đề tài này, nhưng về giá trị nghệ thuật thì còn phải bàn, mặc dầu Bàng Bá Lân cũng là một nhà nhiếp ảnh từng được giải thưởng quốc tế:.

    Đói tự Bắc Giang đói từ Hà Nội
    Đói ở Thái Bình đói tới Gia Lâm
    Khắp đường xa những xác đói rên nằm
    Trong nắng lửa, trong bụi lầm co quắp
    Giữa đống trẻ chỉ còn đôi hố mắt
    Đọng chút hồn sắp tắt của thây ma
    Những cánh tay gầy quờ quạng khua khua
    Như muốn bắt những gì hư ảnh
    Dưới mái tóc rối bù và kết dính
    Một làn da đen sạm bọc da đầu
    Răng nhe ra như những chiếc đầu lâu
    Má hóp lại răng hằn sâu gớm ghiếc…

    Sau khi di cư vào Nam, năm 1956, Bàng Bá Lân làm bài thơ Đã hai năm rồi xa quê hương gợi nhớ đến những cái Tết miền Bắc năm xưa, đây cũng là một “Thương nhớ mười hai” trong thơ:

    Đã hai Xuân rồi xa quê hương
    Ngồi trông về Bắc buồn vương vương
    Hoa đào còn đỏ
    Hoa cúc có vàng?
    Hoa Xuân có phô màu tuyết
    Bàn thờ còn ngát trầm hương
    Gió khuya heo hút phố phường
    Có ai đi lễ trong sương lạnh lùng?
    Những bàn tay mịn như nhung
    Có vịn cành tơ hái lộc?
    Những bàn tay già
    Còn lay ống thẻ đầu năm?
    Và ở miền quê yêu dấu
    Đình chùa miếu mạo ra sao?
    Hội hè nô nức xôn xao
    Cây đu còn dải yếm đào đùa bay?
    Những chiếc khăn vuông mỏ quạ
    Còn ôm ấp má hây hây
    Những cặp môi hồng tươi nở
    Còn thơm, còn thắm trầu cay?

    Sống trong cảnh phồn hoa đô hội ở miền Nam, Bàng Bá Lân vẫn nhớ về tiếng võng đưa ở quê nhà miền Bắc:

    Tiếng võng đưa
    Cót ca cót két
    Đêm dài mưa rét
    Mẹ ru con mơ màng…
    Dân tộc Việt Nam
    Lớn trong tiếng võng
    Già trong lời ru
    Êm đềm thay tiếng võng đưa
    Nhịp thơ
    Dân tộc
    Mơ màng ta nghe tiếng khóc
    Của thời măng sữa xa xôi
    Ạ ơi ơi…
    Ạ ơi ơi…
    Cót ca cót két
    Muôn đời
    Nhịp thở
    Và đây những vần thơ
    Nhịp theo tiếng võng đung đưa
    Nhịp theo lời ân ái
    Tình quê vời vợi
    Hồn dân tộc mang mang
    Bao giờ nối lại giang san
    Mà nghe tiếng võng mơ màng đâu đây

    Trong ngày “nối lại giang san” sau 30 – 4 – 1975, tôi đã gặp Bàng Bá Lân ở nhà chị Anh Thơ tại đường Thiệu Trị thành phố Hồ Chí Minh và trò chuyện nhiều với ông về quê hương Bình Lục, anh em họ hàng ông và bạn bè văn nghệ của ông ở miền Bắc. Tuổi già, để đoàn tụ gia đình ông xuất cảnh sang Mỹ, và qua đời năm 1989 nhưng trước sau ông vẫn một lòng trung thành với quê hương, đất nước, như bông sen “gần bùn vẫn chẳng hôi tanh mùi bùn”.

    Ở đây không chỉ là vấn đề về nghệ thuật thơ mà trước hết là ở nhân cách của nhà thơ. Trong bài Nghịch lý của việc nhận dạng một người Mỹ, John Kinnaid đã viết: “Thơ Whitman cho thấy rằng những hoạt động của trí tưởng tượng của một nhà thơ cũng phải đi liền với ý chí “sống” và hơn nữa cũng tùy thuộc ở sức sống của nhà thơ. Và cái nhân cách của nhà thơ thoát ra từ âm điệu trong câu thơ không phải là cái mặt nạ giả tạo của mộng tưởng do trí tưởng tượng của nghệ thuật, nhưng là một tiếng nói “không thể tách rời khỏi nhân cách của nhà thơ trong cuộc sống thực tại, mặc dầu tiếng nói đó không có liên quan gì đến cuộc sống thực tại. Và cái ý nghĩa chỉ tiến tới một nhân cách như vậy không phải như nhiều người nghĩ chỉ giới hạn trong trạng thái tinh thần lãng mạn của Whitman mà còn là một yếu tố tối cần thiết cho tất cả các nhà thơ khác trong thế giới hiện đại”.

    Lời nhắc nhở của một nhà văn Mỹ có thể gợi rất nhiều cho chúng ta trong việc đánh giá các nhà văn sống ở miền Nam sau năm 1954, để có một cái nhìn chân xác thấu lý đạt tình, tránh khỏi những cách vùi dập nghiêt ngã hay tâng bốc bốc đồng, vì như Whitman đã nhấn mạnh cuốn sách của ông thực ra không phải chỉ là một cuốn sách: “Đọc nó tức là đọc một người”.

    Nguồn: Văn chương hồn Việt

  10. #20
    Diamond Member PhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucket
    Ngày gia nhập
    May 2009
    Bài viết
    8.176
    Thanks
    301
    Thanked 3.169 Times in 588 Posts

    Default Ðề: Tìm hiểu thế giới thi nhân....

    Trích dẫn Trích dẫn của TeacherABC Xem bài viết
    Pha Lê ơi, bài viết chọn màu chữ đỏ đọc nhức mắt quá em à!
    Anh reply nhanh thế... em thao tác nhầm...

Trang 2 / 4 Đầu tiênĐầu tiên 1234 LastLast

Chủ đề tương tự

  1. Thác Giang Điền
    By travelvietnam in forum Du Lịch Đó Đây
    Trả lời: 0
    Bài cuối: 08-04-2011, 11:26 AM
  2. Núi non Hà Giang
    By Quỳnh_muộn in forum Du Lịch Đó Đây
    Trả lời: 2
    Bài cuối: 03-12-2009, 05:43 PM
  3. Pha Lê làm người đẹp giang hồ
    By TeacherABC in forum Tin tức - Đời sống Điện ảnh
    Trả lời: 0
    Bài cuối: 24-09-2009, 08:57 AM
  4. Lưu Hương Giang - Vol.1
    By Đôi Mắt Mùa Đông in forum Links Download Nhạc Việt
    Trả lời: 0
    Bài cuối: 28-07-2009, 11:39 AM
  5. Thành phố mưa bay - Bằng Giang
    By Nguyên Thoại in forum T
    Trả lời: 1
    Bài cuối: 18-06-2009, 10:21 AM

Posting Permissions

  • Bạn không thể tạo chủ đề mới
  • Bạn không thể trả lời
  • Bạn không thể dùng tập tin đính kèm
  • Bạn không thể hiệu chỉnh bài
  •