Bài 1 đến 2/2

Chủ đề: [Quân sự] Tìm hiểu về tàu sân bay lớp Nimitz (phần 1)

Hybrid View

  1. #1
    Member PhotobucketPhotobucket Hàm Long's Avatar
    Ngày gia nhập
    May 2011
    Bài viết
    105
    Thanks
    3.048
    Thanked 649 Times in 108 Posts

    Default Re: [Quân sự] Tìm hiểu về tàu sân bay lớp Nimitz (phần 1)

    4. Cất cánh trên tàu sân bay

    Chém gió trên Niemrieng (!?)... và làm việc trên đường băng của tàu sân bay là những công việc đầy hứng khởi và nguy hiểm nhất trên thế giới. Sàn tàu trông thì giống như một đường băng bình thường, nhưng cách thức hoạt động thì rất đặc biệt bởi kích thước khiêm tốn của nó. Các thủy thủ phải làm việc trong lúc máy bay đang cất cánh hoặc hạ cánh ở tốc độ "kinh hoàng" với một không gian hạn chế. Một khoảnh khắc bất cẩn là có thể sẽ bị động cơ máy bay chiến đấu hút vào và tạo ra một vụ nổ khủng khiếp.

    Môi trường trên boong tàu là cực kỳ nguy hiểm đối với các thủy thủ, nhưng mà chỉ đối với thủy thủ thôi nhé, còn các phi công thì họ đi ra đi vào dễ dàng nhờ sự hỗ trợ của một số thiết bị đặc biệt.


    A-6E Intruder chuẩn bị ra đường băng trên tàu USS George Washington

    Máy bay cần các luồng không khí di chuyển nhằm tạo lực nâng và để dễ dàng cất cánh hơn, bởi những chiếc tàu có thể tăng tốc trên đại dương, ngược chiều gió khiến làm tăng lượng không khí chuyển động và làm giảm tốc độ tối thiểu để cất cánh của máy bay.

    Những ngọn gió thì thường thơ mộng và cần thiết cho các chuyến bay, thế nhưng sự hỗ trợ chính cho các phi cơ lại đển từ bốn bệ phóng. Các thiết bị này giúp máy bay tăng tốc một cách nhanh chóng ở khoảng cách rất ngắn. Mỗi bệ phóng bao gồm hai pittông đặt trong hai xi lanh nằm song song ở dưới boong tàu. Hai pittông được gắn hai tai kim loại có thể di chuyển trên rãnh hẹp của xi lanh. Hai chiếc tai này sẽ có một cái chốt để gắn với bánh xe máy bay.


    Một trong những chiếc tai bằng kim loại trên tàu USS John Stennis.

    Để chuẩn bị cất cánh, các thủy thủ gắn bánh xe máy bay và chốt lại với nhau rồi nâng tấm bảo vệ phía sau lên nhằm vừa làm đổi hướng luông khí nóng thoát ra từ động cơ phản lực (mỗi loại máy bay có một tấm bảo vệ riêng) vừa giúp tạo ra lực đẩy lớn hơn để máy bay cất cánh.


    Một thủy thủ đang kiểm tra chiếc F-14 Tomcat trên tàu USS George Washington.

    Sau khi tất cả đã ở đúng vị trí và các cuộc kiểm tra cuối cùng đã xong, một sĩ quan chỉ huy sẽ cầm súng đạn cao su, sẵn sàng bắn khi có hiệu lện từ phòng kiểm soát nhô lên trên đường băng.


    Hơi nước bốc lên do chiếc F/A-18C Hornet đang khởi động trên tàu USS George Washington. Bạn có thể thấy viên sĩ quan đang cầm súng.


    F-14 Tomcat trên tàu USS Nimitz lao vút đi một phần nhờ phản lực của tấm chắn phía sau.

    Đùng! Hiệu lệnh phát ra từ tiếng súng, các sĩ quan điều hành sẽ mở van để hơi nước có áp suất cao từ lò phản ứng hạt nhân tràn vào xi lanh. Hơi nước sẽ cung cấp năng lượng cần thiết giúp đẩy các pittông lao đi ở tốc độ cao, tai kim loại gắn liền pittông giúp máy bay phóng về phía trước. Khi đạt tốc độ cần thiết, những chiếc chốt tự động mở ra để cho máy bay bay vút lên bầu trời.

    Việc kiểm soát áp suất hơi nước là cực kỳ quan trọng, nếu áp suất quá thấp thì sẽ không đủ lực để máy bay cất cánh và bị rơi xuống biển, còn nếu áp suất quá cao thì các thiết bị bên trong lẫn bên ngoài sẽ tan tành trước khi nó bay lên bầu trời. Hệ thống này hoàn toàn có thể giúp một chiếc phi cơ nặng 20.000kg tăng tốc từ 0 lên 266km/h trong 2 giây.


    F/A-18 Hornet cất cánh từ USS George Washington.

    Nếu mọi thứ suôn sẻ, phi cơ sẽ có đủ tốc độ để tạo ra lực nâng giúp nó cất cánh. Còn nếu không, thì phi công (hoặc các phi công) sẽ kích hoạt một thiết bị làm cho chiếc ghế ngồi bắn ra khỏi phi cơ trước khi nó rơi xuống biển (thật may là điều chưa từng xảy ra, tuy nhiên nguy cơ thì luôn rình rập).

    5. Hạ cánh trên tàu sân bay

    Nếu như cất cánh là một công việc nguy hiểm nhất của các thủy thủ, thì hạ cánh trên tàu sân bay là việc khó khắn nhất đối với các phi công, điều này tương tự như là spam ở trên HDVN vậy, cực kỳ khó khăn. Những chiếc máy bay chỉ có khoảng 150 mét đường băng để hạ cánh, như vậy là không đủ cho một con "quái vật" đang lao xuống với vận tốc lớn.

    Để tiếp đất an toàn, mỗi chiếc máy bay sẽ được trang bị một cái móc ở sau đuôi gọi là tailhook. Mục tiêu của các phi công là móc tailhook và bốn sợi dây hãm (arresting wires) được căng ngang và làm từ thép cường lực.


    ES-3A Shadow hạ cánh trên USS George Washington.

    Hai đầu sợi dây hãm được nối với hệ thống xi lanh thủy lực đặt ở dưới boong. Khi tailhook "chộp" được sợi dây và kéo đi, hệ thống xi lanh thủy lực sẽ hấp thụ năng lượng giúp chặn máy bay lại. Hệ thống dây hãm này có thể chặn đứng một chiếc máy bay 24.500kg đang lao đi với vận tốc 244km/h trong vòng 2 giây với khoảng cách 96 mét.


    Tailhook của KA-6D Intruder chuẩn bị móc vào dây hãm trên USS Dwight D. Eisenhower.


    F/A-18C Hornet chộp được dây hãm trên USS Nimitz rồi nhé!

    Có bốn sợi dây hãm song song lần lượt cách nhau 15 mét, mang đến sự lựa chọn phong phú cho phi công. Tuy nhiên, các đồng chí này thường nhắm vào sợi dây số 3 bởi đó là mục tiêu an toàn và hiệu quả nhất. Sợi dây thứ nhất sẽ không bao giớ được lựa chọn, bởi nó quá gần mép boong, quá nguy hiểm cho việc hạ cánh. Có thể tạm chấp nhận được đối với những ai lựa chọn dây số 4 và dây số 2, tuy nhiên để thực sự có "số má", các phi công phải chộp được dây số 3.

    Để tránh được những hiểm họa bất thường, phi công cần tiếp đất chính xác ở các góc phía bên phải. Các máy bay sẽ bay vòng tròn (chính xác hơn là hình bầu dục) phía trên tàu. Các sĩ quan ở trung tâm điều khiển bay phía dưới sẽ quyết định thứ tự hạ cánh của từng chiếc dựa trên mức nhiên liệu còn trong bình, những chiếc còn ít nhiên liệu nhất sẽ xuống trước.

    Các sĩ quan hưỡng dẫn phi công hạ cánh nhờ các tín hiệu từ sóng radio và ánh sáng từ hệ thống đèn ở trên boong.


    Một sĩ quan đang hưỡng dẫn phi công hạ cánh trên USS George Washington.

    Ngoài việc tiếp nhận thông tin từ phòng điều khiển, phi công cũng có thể quan sát hệ thống hạ cánh nhờ thấu kính quang học Fresnel, mà họ thường gọi là thấu kính (cho gọn). Hệ thống này bao gồm rất nhiều đèn kết hợp với các thấu kính Fresnel, tất cả được gắn trên một con quay hồi chuyển (gyroscopically stabilized) cố định. Các thấu kính sẽ hội tụ ánh sáng thành chùm tia hẹp và hướng chúng lên bầu trời ở các góc độ khác nhau.

    Các phi công sẽ thấy ánh sáng từ đèn khác nhau tùy thuộc vào vị trí của từng máy bay. Nếu máy bay được lệnh chuẩn bị hạ cánh, phi công sẽ thấy ánh sáng màu hổ phách (được đặt tên là "thịt viên") xuất hiện ngang hàng với đèn màu xanh. Nếu ánh sáng từ đèn màu hổ phách xuất hiện phía trên đèn màu xanh thì có nghĩa là chiếc máy bay đang đến có độ cao quá lớn và ngược lại, nếu ánh sáng màu hổ phách xuất hiện phía dưới đèn màu xanh thì chiếc máy bay đang đến quá thấp. Trường hợp cuối cùng là một chiếc máy bay đang đến có độ cao thấp hơn boong tàu thi phi công sẽ thấy màu đỏ xuất hiện.


    Hệ thống đèn tín hiệu trên USS John F. Kennedy.


    Sơ đồ minh họa.

    Ngay khi máy bay chạm boong tàu, phi công phải tăng tốc hết cỡ (chứ không phải làm chậm lại như Dét Sờ Ta đâu nhé!). Điều này nghe có vẻ lố bịch và nực cười, nhưng nó thực sự khoa học bởi nếu như tailhook không "chộp" được sợi dây hãm thì máy bay vẫn đủ tốc độ để cất cánh, bay vòng lên và hạ cánh lại lần nữa. Đường băng được thiết kế nghiêng 14 độ so với phần còn lại của con tàu, nhờ vậy các máy bay sẽ dễ dàng cất cánh hơn khi chộp hỏng (chứ không phải là cày xới luôn đường băng).

    Ngay sau khi hạ cánh, các máy bay sẽ được kéo ra khỏi đương băng và bị "xích" lại một bên. Điều này vừa tránh việc "rơi rớt" xuống biển, vừa đảm bảo tính sẵn sàng chiếc đấu cho các phi công.

    Các thủy thủ đã được huấn luyện để đối mặt với những tình huống bất ngờ, bao gồm cả giả thiết là tàu sân bay cháy "tưng bừng khói lửa". Trong quá trình cất cánh và hạ cánh, có rất nhiều thiết bị an toàn luôn ở trạng thái sẵn sàng, trong số đó có một chiếc xe cứu hỏa nhỏ, vòi phun nước và các thiết bị chữa cháy khác.


    S-3A Viking gặp trục trặc nên phải hạ cánh nhờ một chiếc hàng rào đặc biệt trên tàu USS Abraham Lincoln.

    Các nhân viên hỗ trợ bay cũng phải đối mặt với nguy cơ bị động cơ phản lực thổi xuống biển. Một vài hệ thống lưới an toàn được dựng lên cung cấp những bảo vệ căn bản. Tuy nhiên, để thật sự an toàn thì các nhân viên phải mặc áo phao có thể tự bơm hơi và tích hợp một chiếc đèn tự nhấp nháy khi tiếp xúc với nước. Ngoài ra, họ còn phải mang một chiếc mũ bảo hiểm nặng trình trịch được gọi là cranial (hộp sọ) để bảo vệ đầu và các thiết bị liên lạc.

    (Còn tiếp...)

    Code:
    http://www.hdvietnam.com/diendan/
    Last edited by Hàm Long; 27-09-2011 at 05:18 PM.
    Hướng dương hướng phía mặt trời
    Tình anh hướng hết một đời phía em !

  2. Có 5 thành viên cám ơn bài của Hàm Long:

    Dung_SHA (28-09-2011),Emanuel (28-09-2011),Lão K (28-09-2011),Phu sinh (28-09-2011),Sheiran (27-09-2011)

Posting Permissions

  • Bạn không thể tạo chủ đề mới
  • Bạn không thể trả lời
  • Bạn không thể dùng tập tin đính kèm
  • Bạn không thể hiệu chỉnh bài
  •