Bài 1 đến 6/6

Chủ đề: Đại Việt Sử Thi - Hồ Đắc Duy

  1. #1
    Diamond Member PhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucket
    Ngày gia nhập
    May 2009
    Bài viết
    8.176
    Thanks
    301
    Thanked 3.169 Times in 588 Posts

    Default Đại Việt Sử Thi - Hồ Đắc Duy

    ÐẠI VIỆT SỬ THI
    HỒ ÐẮC DUY


    QUYỂN I
    CHƯƠNG MỞ ÐẦU


    Dân tộc ta từ ngày dựng nước
    Giòng sử thiêng đã được viết ra
    Hằng nghìn năm trước trôi qua
    Ðất đây đã có quốc gia Việt Thường

    THỜI ÐẠI HỒNG BÀNG
    (2879 - 257 TCN)


    Vua Thần Nông vốn giòng Lạc Việt
    Cháu : Ðế Minh . Nối nghiệp vua ban (2879 TCN)
    Rừng xanh, Ngũ Lĩnh chiêm quan
    Phương Nam chọn đất , cưới nàng Vụ Tiên

    KINH DƯƠNG VƯƠNG - XÍCH QUỶ

    Với mỹ nhân xe duyên kết tóc
    Sinh ra đời Lộc Tục hoàng nam
    Cắm lều, dựng trại, chiêu dân
    Ðặt tên Xích Quỷ giang sơn một vùng

    Kinh Dương Vương xưng hùng một cõi
    Ðất nước dài một giải mênh mông
    Kết hôn con gái Thần Long
    Sinh ra Sùng Lãm nối dòng Vương gia

    LẠC LONG QUÂN

    Lạc Long Quân có bà vợ trẻ
    Nàng Âu Cơ diễm lệ thướt tha
    Bà sinh một bọc trứng ngà
    Một trăm trứng nở thành ra trăm người

    Ði theo cha, năm mươi về tới
    Bỏ núi rừng ra mãi Biển Ðông
    Mẹ cha dòng dõi : Tiên , Rồng
    Như rừng với biển khó lòng cùng nhau

    HÙNG VƯƠNG - VĂN LANG

    Mãi về sau, Long Quân chọn được
    Ðất Phong Châu khí vượng kinh đô
    Văn Lang lập quốc bấy giờ
    Hùng Vương xưng đế, cõi bờ tuần tra

    Nước Văn Lang, nhìn ra Ðông Hải
    Ðộng Ðình Hồ ở mãi Bắc phương
    Bờ Tây : Ba Thục chắn đường
    Phía Nam giáp nước Hồ Tôn của Chàm

    Chia đất nước ra làm mấy bộ
    Lấy Văn Lang làm chỗ trung quân
    Việt Thường, Ninh Hải, Cửu Chân
    Hoài Hoan, Giao Chỉ, Bình Văn, Dương Tuyền

    Miền Vũ Dịch, Chu Diên, Cửu Ðức
    Miềạn Tân Hưng, Phúc Lộc, Vũ Ninh
    Ngoài xa Lục Hải mấy thành
    Bên trong Lạc Tướng vây quanh bên ngài

    Người Bách Việt chen vai sát cánh
    Sống quây quần bên nhánh sông Lô
    Ðất, rừng trù phú trời cho
    Dân chuyên nông nghiệp, rành đồ gốm nung

    Nền Văn Hóa Ðông Sơn rực rỡ
    Chế Trống Ðồng dùng ở khắp nơi
    Khai sinh tục vẽ trên người
    Xâm mình để tránh các loài dưới sông

    Vào cuối đời Vua Hùng thứ sáu
    Phù Ðổng hương có cậu con trai
    Lên ba chẳng nói chẳng cười
    Nghe tin giặc đến liền đòi sứ vô

    Tâu Hoàng Thượng : Xin cho thảo tặc
    Sẽ đánh nhừ tan tác giặc Ân
    Xin đúc ngựa sắt roi thần
    Ðể làm vũ khí đánh quân bạo tàn

    Rồi vươn vai, xua tan lũ giặc
    Xong quay về đến đất Sóc Sơn
    Áo nhung bỏ lại bên đường
    Dấu chân Phù Ðổng Thiên Vương nay còn

    Ðời Thành Vương, vua sai đem lễ (1062 TCN)
    Biếu nhà Chu : Bạch trĩ vũ mao
    Mở đầu hai nước bang giao
    Chu công đáp lại , xe trao đưa về

    Nàng Mị Nương muôn bề sắc sảo
    Trai Thục bang kỉnh báo cầu thân
    Vua Hùng hỏi ý quần thần
    Xét rằng bên Thục mười phân đáng ngờ

    Việc hôn nhân chẳng qua là tính
    Dùng mưu ngầm kiêm định Văn Lang
    Vua Hùng đã biết ý gian
    Lựa lời từ chối Thục Vương việc này

    Lại treo bảng kén tài phò mã
    Ai nhanh chân sẽ gả Mị Nương
    Sơn Tinh sớm, được hưởng hương
    Chậm chân chàng Thủy đau thương hận thầm

    Thủy Tinh thề , mổi năm làm lụt
    Ra oai thần mưa trút nước dâng
    Thục Vương xấu hổ còn hơn
    Dặn cho con cháu quyết tâm trả thù


    THỜI ÐẠI NHÀ THỤC (257 - 208 TCN)
    AN DƯƠNG VƯƠNG ÂU LẠC


    Năm Giáp Thìn (257TCN) bấy giờ Thục Phán
    Xâm lấn dần địa phận Văn Lang
    Tự xưng hiệu An Dương Vương
    Kinh đô đóng ở Việt Thường Phong Khê

    Bỏ quốc hiệu Văn Lang ngày trước (257TCN)
    Ðổi ra thành Âu Lạc từ đây
    Tính theo năm tháng đến rày
    Hăm bảy thế kỷ , kế thay vua Hùng

    Ðời cuối cùng của giòng Hồng Lạc
    Tính ra là mười tám Hùng Vương
    Trải bao điền hải tang thương
    Ðến nay Thục Phán chiếm luôn riêng mình

    Chọn được chỗ lương điền đất tốt
    Vua cho người động thổ khởi công
    Cổ Loa thành gọi Tư Long
    Xoay theo xoắn ốc từ trong ra ngoài

    Thành Tư Long xây hoài chẳng được
    Thần Kim Quy bày chước trừ ma
    Dặn rằng dù có can qua
    Linh Quang, Kim Trảo, móng ta cho người


    Cổ Loa thành bời bời dũng khí
    Tường thì cao, hào rộng lại sâu
    Giang sơn Vua Thục từ sau
    Linh Giang Nam Bắc đối đầu Trung Hoa

    Tần Thủy Hoàng làm vua Trung Quốc
    Cho Nhâm Ngao đất được một miền (214TCN)
    Triệu Ðà giữ trấn Long Xuyên
    Phía Nam Thiên Ðức thuộc quyền Thục Vương

    Ðất Nam phương lăm le muốn lấy
    Ðã mấy lần thất bại mưu sâu
    Sai con Trọng Thủy sang hầu
    Làm quan Túc Vệ, bắc cầu thông gia

    Chàng Trọng Thủy nghe cha đánh cắp
    Lấy nỏ thần bẻ gập làm đôi
    Âm thầm để tạm một nơi
    Ðánh lừa vua Thục và người chung quanh

    Cuộc chiến tranh về sau xảy đến
    Cứ tưởng rằng nỏ vẫn chỗ xưa
    Ðến khi lâm trận nhà vua
    Mới hay kẻ cắp đã đưa đi rồi

    Giặc đuổi gấp, bén sau chân ngựa
    Tới đường cùng núi Dạ chắn ngang
    Thục Vương ngửa mặt mà than
    “Nỏ thần vô dụng, Rùa thần cứu ta”

    Rùa hiện ra, nhìn vua rối gắt :
    “Kẻ ngồi sau là giặc biết không ?”
    Mị Châu tình đã nặng lòng
    Rắc đường lông ngỗng để chồng tìm theo

    Vua quay lại, chém vèo một nhát
    Nàng đã ra cái xác không hồn
    Từ đây triều Thục mất luôn
    Năm mươi năm chẵn chỉ còn vết lông (257-208TCN)

    Ðất Phiên Ngung vốn giòng Chân Ðịnh
    Vua Triệu Ðà thôn tính Lĩnh Nam
    Là người quỷ quyệt, mưu thâm
    Ðã từng hỏi thử : “Ta bằng Lưu Bang ?”


    THỜI ÐẠI NHÀ TRIỆU (207 - 111 TCN)
    ÂU LẠC TRIỆU ÐÀ (VŨ ÐẾ) 207 - 137 TCN
    ở ngôi 71 năm


    Nam Việt Vương Triệu Ðà xưng đế (207TCN)
    Năm Mậu Ngọ làm lễ lên ngôi
    Giang sơn hùng cứ một thời
    Cất quân chiếm lấy đất ngoài Trường Sa

    Ðánh Ngô Nhuế chạy xa khỏi đảo
    Nơi biên thùy tiến thảo viễn chinh
    Quyền uy riêng một triều đình
    Dùng cờ Tả đạo xưng quyền đế quân

    Triệu Vũ Ðế thâu dần đất nước
    Ở phía Nam tới được Việt Thường
    Bắc Phương thì đến biên cương
    Cùng người Trung Quốc vạch đường phân ranh

    Hán Văn Ðế trị bình cường thịnh (179 TCN)
    Sai người vào Chân Ðịnh tìm ra
    Mộ phần, gia tộc Triệu Ðà
    Sửa sang miếu mạo mấy tòa cung lăng

    Kể từ đó, hai phương giao hảo
    Hán và Ðế xếp giáo lui binh
    Bàng dân thiên hạ yên tình
    Nước nhà thịnh trị thanh bình cả hai


    VĂN VƯƠNG (137 - 125 TCN)
    ở ngôi 12 năm


    Cháu là Hồ, con trai Trọng Thủy
    Nối ngôi vua, Vũ Ðế trao cho
    Văn Vương học đạo Thuấn Nghiêu
    Lấy nhân lễ nghĩa làm điều trị dân

    Mân Việt Vương cho quân xâm lấn
    Nam Việt xưa thuộc Hán từ lâu
    Kiến Nguyên sai tướng vào chầu
    Giúp giùm Nam Việt, kết nhau lúc này


    Lời giao ước chung tay chống giặc
    Giữa hai miền Nam Việt - Trung Hoa
    Nếu khi gặp việc can qua
    Thì cùng hợp sức để mà cứu nhau

    Vì Văn Vương ơn sâu cầu cạnh
    Cho nên Vua bàn tính thiệt hơn
    Sai người sắm sưả đưa con
    Ðem qua nhà Hán để làm con tin

    Triệu Văn Vương ngồi trên gần được
    Mười hai năm nối nghiệp Triệu Ðà (137 - 125 TCN)
    Anh Tề lúc trước cho qua
    Nay quay trở lại thay cha trị vì

  2. #2
    Diamond Member PhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucket
    Ngày gia nhập
    May 2009
    Bài viết
    8.176
    Thanks
    301
    Thanked 3.169 Times in 588 Posts

    Default Ðề: Đại Việt Sử Thi - Hồ Đắc Duy

    MINH VƯƠNG 125 - 113 TCN)
    ở ngôi 12 năm


    Mới vừa về, lên ngôi Thiên tử (124 TCN)
    Triệu Minh Vương đã phụ lòng tin
    Bỏ trưởng, lập thứ lòng riêng
    Phong Cù Hoàng hậu gây thêm bất hòa

    Mất kỷ cương quốc gia phân hóa
    Phép nước suy mối họa gần bên
    Vợ thì dâm loạn chuyên quyền (112 TCN)
    Con còn bé bỏng đưa lên trị vì


    Hán Nguyên Ðỉnh tính bề xâm lược
    Sai Ngụy Thần dùng chước gián ly
    Khi dụ dỗ, lúc răn đe
    Khuyên vua phiên thuộc theo về Bắc Phương


    AI VƯƠNG (113 - 112 TCN)
    ở ngôi 1 năm

    Triệu Ai Vương sức hèn tuổi trẻ
    Thái hậu là một kẻ trăng hoa
    Giữa triều Tể Tướng Lữ Gia
    Vì dân can gián nhưng bà chẳng nghe

    THUẬT DƯƠNG VƯƠNG (112 - 111 TCN)
    ở ngôi 1 năm


    Lữ Gia vì nước nhà họ Triệu
    Vung thước gươm kết liễu Ai Vương
    Lập con trưởng của Minh Vương
    Tên là Kiến Ðức, Thuật Dương Vương hầu

    Không bao lâu, biết vua bị giết
    Nguyên Ðỉnh bèn thừa dịp ra tay
    Phiên Ngung sắp đặt mấy ngày
    Mùa Ðông Canh Ngọ bao vây thành trì (111 TCN)


    THỜI ÐẠI BẮC THUỘC NHÀ TÂY HÁN
    (110 - 39 SCN)

    Nước suy vi, dân tình ta thán
    Tổ quốc chừ quân Hán cướp đi
    Ðất phân chín quận , giặc chia
    Ðặt quan cai quản, sau khi giết người

    Ðất Lĩnh Nam từ thời lập quốc
    Ðến bây giờ lại mất vào tay
    Nước ta Bắc thuộc từ rày (110 TCN)
    Giặc gây thảm cảnh đọa đày nhân dân

    Ðặt đất Nam làm đô hộ phủ
    Thạch Ðái là thứ sử Giao Châu
    Tích Quang văn hóa thâm sâu
    Tiếp theo Tô Ðịnh tham giàu bạo quan (110 TCN - 39)

    Ở Giao Chỉ người dân còn nhớ
    Công của người Thái Thú Nhâm Diên
    Dạy ta cày cấy canh điền
    Tỏ lòng tưởng niệm lập đền khói nhang

    Thời Tây Hán lầm than khốn đốn
    Suốt thời gian trăm bốn chín năm (149)
    Bao nhiêu uất hận hờn căm
    Thêm tên Tô Ðịnh tham tàn hại dân


    THỜI ÐẠI TRƯNG NỮ VƯƠNG - TRƯNG VƯƠNG 40 - 43 ở ngôi 3 năm

    Hai Bà Trưng con quan Lạc tướng
    Quê Phong Châu thuộc huyện Mê Linh
    Trưng Trắc đến tuổi trưởng thành
    Cùng chàng Thi Sách, kết tình phu thê

    Thù Tô Ðịnh lắm bề hà khắc
    Lại giết chàng Thi Sách tướng quân
    Tham tàn một lũ bất nhân
    Ðọa đày thiên hạ muôn phần đớn đau

    Thù Tô Ðịnh không sao kể xiết
    Cùng với em thề quyết một lòng
    Nam nhi đánh với quần hồng
    Ðể coi nhi nữ vẫy vùng thử xem

    Bà Trưng Trắc cùng em Trưng Nhị
    Phất cờ đào quyết chí trừ gian
    Thù chồng không trả nào cam
    Nước còn nô lệ chẳng kham lao tù

    Vua nhà Hán, khởi từ năm Sửu (41)
    Cho Phục Ba sang cứu Phong Châu
    Lưu Long, Phù Lạc phong hầu
    Ðặt làm phó tướng dẫn đầu tiến binh

    Ở Mê Linh, cùng dân cả nước
    Ðể sẵn sàng chặn bước xâm lăng
    Cửu Châu , Hợp Phố , Nhật Nam
    Thanh Trì , Nam Hải , Lĩnh Nam theo về

    Lệnh phát đi, đánh nhanh rút gọn
    Dụ giặc vào chia mỏng địch quân
    Kẻ thù như nước đang dâng
    Ào ào tiến đến đã gần Tây Nhai

    Trước thế giặc như loài lang sói
    Sợ quân mình khó nổi đánh nhau
    Vua bà ra lệnh lùi sâu
    Vào vùng cứ địa, đào hào cắm chông

    Trận khởi đầu giết xong Hàn Vũ
    Giết tên này ở chỗ Tây Nhai
    Trăm quân giặc chết trận này
    Khiến cho Mã Viện phải thay ý đồ

    Vượt sông Hồng thừa cơ đánh úp
    Lịnh Hai Bà : Tạm chớ giao tranh
    Bảo toàn lực lượng để dành
    Cấm Khê đợi lịnh, đánh nhanh bất kỳ

    Giặc biết ý cho đi từng đội
    Lấn chiếm dần không vội ra quân
    Binh ta đánh chậm, cầm chân
    Ðiều quân đại chiến ở gần Hát Giang

    Dưới lọng vàng, trên đầu voi chiến
    Bóng hai bà ẩn hiện trong sương
    Cờ đào phấp phới hiên ngang
    Quần thoa nhi nữ mỡ đường tiến quân

    Sau một trận giao tranh ác liệt
    Sa cơ đành tuẫn tiết hy sinh
    Hát Giang nước biếc gieo mình
    Ơn đền nợ nước, tình riêng với chồng

    Hai Bà Trưng một lòng với nước
    Vì cơ đồ vị quốc vong thân
    Trăm năm nước chảy đá mòn
    Vẫn còn in lại dấu chân vua Bà

    Năm Quý Mão hai bà tuẫn tiết
    Trước mười năm ở tít Trung Ðông (43)
    Chiên con là chúa Hài Ðồng
    Chết trên thánh giá vì lòng độ nhân

    Rút về Nam, Ðô Dương vào núi
    Cố tìm đường đánh đuổi Hán quân
    Nghĩa binh Chu Bá theo chân
    Mấy năm kháng chiến yếu dần tiêu hao

    “Cột Ðồng gãy thì Giao Châu diệt”
    Là lời thề tướng giặc ghi đây
    Phục Ba đúc, dựng cột này
    Cổ Lâm dấu tích đến nay khó tìm


    THỜI ÐẠI BẮC THUỘC NHÀ ÐÔNG HÁN
    (43 -226)


    Quân Ðông Hán gọng kềm siết chặt
    Trị dân Nam mặc sức giam cầm
    Tha hồ vơ vét, tham lam
    Cướp theo của cải bạc vàng mang đi

    Những Thái Thú người Di, người Hán
    Rất nhiều tên tán tận lương tâm
    Làm quan đâu được vài năm
    Vén thu lông trĩ, kỳ nam đem về

    Năm Canh Tuất (190) Man Di Nam Chiếu
    Quy tụ người ở đạo Nhật Nam
    Cũng như dân ở Tượng Lâm
    Lập nên nước mới là Chàm hiện nay

    Nước Lâm Ấp tôn ngay thủ lĩnh
    Là Khu Liên thống lĩnh toàn dân
    Về sau đổi lại Hoàng Vương
    Ðất đai khai phá mở mang xuống dần

    Hán Trung Bình vào năm Giáp Tý (184)
    Giao Lý Tiến quản lý Giao Châu
    Rồi sai Sĩ Nhiếp về sau
    Phong chức Thái Thú cầm đầu từ đây


    THỜI ÐẠI BẮC THUỘC NHÀ ÐÔNG NGÔ 226 - 280

    Sĩ Nhiếp người Vấn Dương, nước Lỗ
    Cuối năm Dần đầu với Ngô Vương
    Tôn Quyền cho gửi thư sang
    Giữ nguyên chức tước, phong hàm Tướng Quân

    Quân xâm lược dần dần áp đặt
    Lấy luật Tàu ép bắt dân ta
    Ðổi thay phong tục đã qua
    Lâu ngày đồng hóa, dần dà diệt luôn

    Năm Bính Dần nữ vương Triệu Ẩu (246)
    Dấy dân quân chiến đấu diệt Ngô
    Núi Nưa tụ nghĩa dựng cờ
    Giết viên thứ sử nhà Ngô đương thời

  3. #3
    Diamond Member PhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucket
    Ngày gia nhập
    May 2009
    Bài viết
    8.176
    Thanks
    301
    Thanked 3.169 Times in 588 Posts

    Default Ðề: Đại Việt Sử Thi - Hồ Đắc Duy

    THỜI ÐẠI TRIỆU THỊ TRINH
    248 - 248 ở ngôi 1 năm


    Triệu Thị Trinh là người nhan sắc
    Cùng anh là Quốc Ðạt cầm quân
    Lệnh Bà sức khỏe đang xuân
    Cỡi đầu voi dữ diệt quân bạo tàn

    Trong Núi Nưa, nuôi quân dạy tướng
    Cờ mao dùng khiển tướng điều binh
    Khiến cho giặc phải rùng mình
    Tôn Quyền biệt phái sai Hành Dương sang

    Triệu Trinh nương linh hồn chiến đấu
    Trước ba quân tả hữu giáp vàng
    Dân tôn “Lệ Hải Bà Vương”
    Tên Bà nghe đến kinh hoàng giặc Ngô

    Chúa Ðông Ngô mưu mô quỷ quyệt
    Nhưng lệnh bà quyết diệt ngoại bang
    Ðánh cho Lục Dận kinh hoàng
    Ðánh cho quân giặc hết đường rút lui

    Ðất Mỹ Hóa là nơi tử chiến
    Giặc xếp hàng Phú Ðiếu chôn thây
    Ngô vương chiến thuật đổi ngay
    Dằng dai phản kích đêm ngày cầm chân

    Lũ Giặc Ngô lâu dần trụ vững
    Chiếm từ từ dân chúng chung quanh
    Bà Triệu rút bỏ khỏi thành
    Nghĩa quân kiệt sức nên đành bại vong (248)

    Dòng sông Lương binh không thấy bóng
    Dáng Nhụy Kiều nữ tướng năm nao
    Phất phơ một ngọn cờ đào
    Sơn hà phút chốc lọt vào ngoại bang

    QUYỂN HAI


    THỜI ÐẠI BẮC THUỘC 227 - 540
    NHÀ NGÔ - TẤN, TỐNG TỀ LƯƠNG


    Ðất Giao Châu tách làm hai phía (264)
    Phần phương Nam Giao Chỉ đặt tên
    Tấn - Ngô , nhị quốc tranh quyền
    Ðất vùng thuộc địa rối ren tơi bời

    Lúc Ðông Ngô, lúc đời nhà Tấn
    Lũ cầm quyền, tán tận lương tâm
    Dân ta đói rách lầm than
    Dưới ách nô lệ ngoại bang bấy giờ

    Ông Ðào Hoàng phong cho hầu tước
    Khi Tấn triều cướp được Giao Châu (271)
    Cầm quyền cũng được khá lâu
    Bốn đời thứ sử nối nhau kế thừa

    Quân xâm lược dù Ngô hay Tấn
    Tống Lương Tề cũng vẫn ác ôn
    Ngày càng bóc lột nhiều hơn
    Thu gom của cải để làm của riêng

    Bọn quan lại tranh quyền giành chức
    Giết lẫn nhau cưỡng bức nhân dân
    Như tên Lương Thạc, Lư Tuần (322)
    Như tên Lý Tốn, Trường Nhân bấy giờ (380)

    Phạm Hồ Ðạt làm vua Lâm Ấp (399)
    Cất quân vào đánh đất Nhật Nam
    Tràn qua tiến chiếm Cửu Chân
    Giao Châu thôn tính bàn hoàn Tấn Vương (413)

    Hai năm sau Hoàn Vương đánh tiếp (415)
    Vào Giao Châu cướp giết dã man
    Bắt theo vô số dân thường
    Ðem về Phật Thệ để làm tù binh

    Chúng đốt thành phá tan nhà cửa
    Hủy kho tàng phóng lửa đốt dinh
    Cửu Chân thiên hạ rùng mình
    Dã man tàn bạo, dân lành ngả nghiêng

    Viên thứ sử đương quyền tráo trở
    Dụ Hoàng Vương vào chỗ nghi binh
    Ra tay tốc chiến thình lình
    Giết ngay Hồ Ðạt đuổi binh khỏi thành

    Phạm Dương Mại nhân danh Lâm Aãp (432)
    Xin cai quản phần đất Giao Châu
    Tống vương xuống chiếu phê vào
    Rằng không chấp thuận yêu cầu của y

    Năm Bính Tý (436) Hòa Chi khởi đánh
    Giết Phù Long tướng lãnh Chiêm Thành
    Tấn công tiến chiếm thật nhanh
    Tiến vào Tượng Phố là kinh đô Chàm

    Ở Nhật Nam giặc không quấy rối
    Thời Hoàng Vương suy thoái dần dần
    Lâm Aãp, Nam Chiếu là dân
    Không còn đáng sợ như lần trước đây

    Bọn quan lại lũ người gian ác
    Lo làm giàu đi cướp của dân
    Như tên Lưu Bột , Trường Nhân
    Như là Lưu Khải tham quan đương quyền

    Bọn Phương Bắc triền miên cướp bóc
    Hại dân lành xúi dục man di
    Ðiêu tàn non nước suy vi
    Long dân mong ngóng những vì cứu tinh


    NHÀ TIỀN LÝ (541 - 547)
    LÝ NAM ÐẾ ở ngôi 7 năm

    Ở Thái Bình tháng hai Tân Dậu (541)
    Có một người hiểu thấu lòng dân
    Ðó là Lý Bí tướng quân
    Gióng cờ tống cổ giặc Lương bạo tàn

    Ðặt quốc hiệu Vạn Xuân cho nước (544)
    Dời đô về ở trước Long Biên
    Người xưng Nam Ðế nguyên niên
    Xây cung Vạn Thọ đặt nền móng cho...

    Ðất Việt Thường cũng từ dạo đó
    Có vương triều (544) phủ bộ trăm quan
    Ðặt ra tướng võ, tướng văn
    Ðịnh thêm luật lệ để ngăn lạm quyền

    Cho Triệu Túc được làm Thái phó
    Lấy Tinh Thiều vào chỗ tướng Văn
    Phạm Tu đã có công ngăn
    Giặc người Lâm Ấp, võ quan uy quyền

    Nhà Lương sai Bá Tiên tư mã
    Làm tiên phong đánh trả Giao Châu
    Chu Diên, vua đánh phủ đầu
    Dằng dai chống cự, năm sau vỡ thành (545)

    Trận Gia Ninh , trận sông Tô Lịch
    Cả hai bên truy kích lẫn nhau
    Ðịch dùng mưu kế đánh mau
    Lệnh vua cho rút ngỏ hầu dưỡng quân

    Ðất Khuất Lạo, Tân Xương đóng tạm
    Quân số còn hai vạn binh nguyên
    Lại thêm ngàn lẻ ghe thuyền
    Bổ sung binh lính dành riêng dự phòng

    Hồ Ðiễn Triệt dàn quân phục kích
    Ðánh cầm chân đợi địch hết lương
    Nhằm khi chúng sắp cùng đường
    Tốc thần vua sẽ đánh tràn một phen

    Trần Bá Tiên, tướng quân của giặc
    Khích quân mình đánh thật cho hay
    Thời cơ nay đã đến tay
    Lúc đầm ngập nước đánh ngay tức thì

    Quân ta vỡ, rút về Khuất Lạo
    Ðể sửa binh, gươm giáo quân lương
    Tổ chức quân ngũ đàng hoàng
    Chọn thêm tướng giỏi, bổ sung nhân tài

    Vua cho vời Triệu Quang Phục đến (546)
    Trao cho người ấn triện thay vua
    Dân quân đất nước đang chờ
    Dặn người giữ vũng cơ đồ cha ông

    Triệu Quang Phục anh hùng dũng liệt
    Ðiều khiển quân hiểu biết mọi đàn
    Thế vua, ông nhận ngai vàng
    Sửa sang binh mã chọn đường ra tay


    THỜI ÐẠI TRIỆU VIỆT VƯƠNG -
    TRIỆU QUANG PHỤC (548 - 570)
    ở ngôi 30 năm


    Triệu Việt Vương lên thay Nam Ðế
    Ðất Vũ Ninh được kể lắm người
    Anh hùng hào kiệt khắp nơi
    Tụ về dưới trướng chen vai diệt thù
    Ðầm Dạ Trạch ở Chu Diên huyện
    Chọn gò cao huấn luyện dân binh
    Bùn lầy bụi rậm vây quanh
    Um tùm cây cỏ rừng xanh bạt ngàn

    Dạ Trạch Vương đánh tan tướng giặc
    Là Dương Sàn lấy đất Giao Châu
    Năm trăm năm , lệ thuộc Tàu
    Từ đây độc lập, nêu cao ngọn cờ

    Kể từ giờ dân yên nước mạnh
    Vùng cư dân ở cạnh Long Biên
    Ðược mùa thóc lúa nhiều thêm
    Diệt tan xâm lược chưa yên nội tình

    Lý Thiên Bảo là anh Nam Ðế
    Cùng một người họ Lý bôn ba
    Trong khi giặc mới tràn qua
    Vào đất Di Lạc xưng là Ðào Lang

    Ðào Lang vương sau khi tạ thế
    Lý Phật Tử kế vị chúa công
    Tử xua quân xuống miền Ðông
    Giành nhau với Triệu Việt Vương đất này

    Tử là tay gian manh quỷ quyệt
    Ðã năm lần chỉ biết thua đau
    Nay dùng chước quỷ mưu sâu
    Tìm ra diệu kế dắt nhau trá hàng

    Xin cho con Nhã Lang gởi rể
    Cài vào nhà để dễ đoạt ngôi
    Việt Vương vốn tính thương người
    Vô tình để hắn vào nơi thăm dò

    Triệu Quang Phục chẳng lo chú ý (570)
    Bị Phật Tử tìm kế giết đi
    Cảo Nương vì quá đam mê
    Nên cha phải chết bởi nghe lời chồng

    HẬU LÝ NAM ÐẾ (571 - 602)
    ở ngôi 32 năm


    Lý Phật Tử tiếm xưng Nam Ðế
    Lấy họ xưa là để lừa dân
    Ô Diên, đô đóng mấy năm
    Sau dời đô đến ở gần Phong Châu

    Năm Nhâm Tuất vua Tàu sai tướng (602)
    Là Lưu Phương Tổng Quản Quân Doanh
    Ðưa quân uy hiếp kinh thành
    Phật Tử quá sợ, trói mình hàng ngay

    Tướng nhà Tùy cho người áp giải
    Ðưa vua về giam tại Bắc Kinh
    Nước ta nay lại trở thành
    Là đất thuộc địa dưới quyền ngoại bang

  4. #4
    Diamond Member PhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucket
    Ngày gia nhập
    May 2009
    Bài viết
    8.176
    Thanks
    301
    Thanked 3.169 Times in 588 Posts

    Default Ðề: Đại Việt Sử Thi - Hồ Đắc Duy

    THỜI ÐẠI BẮC THUỘC
    NHÀ TÙY ÐƯỜNG (603 - 938)


    Ðất Việt Thường , vào tròng lệ thuộc (603)
    Quân Tùy Ðường lần lượt kéo sang
    Dưới giày xâm lược ngoại bang
    Nước non xơ xác hoang tàn thảm thương

    Bọn Bắc phương đánh hơi thấy lửa
    Nghe Lâm Aãp vàng quả thật nhiều
    Lưu Phương được phái đem theo
    Quân hơn một vạn vượt đèo đánh sang

    Vua Phạm Chí chận đường đánh trả
    Quân nhà Tùy bèn giả chạy thua
    Ðột nhiên quay lại đánh vào
    Trung quân phản kích làm vua chạy dài

    Nhà Tùy mất, Ðường sai Ðạo Hựu
    Sang Giao Châu phủ dụ Khâm Hòa
    Là người khét tiếng điêu ngoa
    Khâm Hòa Thái Thú xin qua chầu hầu (618)

    Y cướp bóc trân châu ngọc quý
    Khi về Tàu, làm lễ dâng lên
    Ðịa đồ, sổ bộ tịch điền
    Của dân Nam Việt không quên một vùng


    Ðường Thái Tông đổi tên thành Phủ (622)
    Xứ Việt Thường xưa gọi Giao Châu
    Nay thì được gọi như sau
    An Nam Ðộ Hộ thuộc Tàu từ đây


    LÝ TỰ TIÊN ( 687 )


    Quan cai trị mặc tay vơ vét
    Của trong dân thu hết làm riêng
    Có người tên Lý Tự Tiên
    Hưng binh khởi nghĩa đứng lên diệt thù (687)

    Vì lực ít, khó cơ chiến thắng
    Bị giặc Tàu vây hãm đó đây
    Về sau bị bắt, lưu đày
    Quân tan, binh vỡ tiếc thay anh hùng

    ÐINH KIẾN ( 687 )

    Tướng của người là ông Ðinh Kiến (687)
    Gom tàm quân quyết chiến tới cùng
    Ðánh thành vây phủ tấn công
    Giết tên Ðô hộ dẹp xong lũ này

    Vua nhà Ðường cử ngay Tư mã
    Tào Trực Tỉnh qua ngã Quế Châu
    Phục binh giết Kiến trả thù
    Cho tên Ðô Hộ bấy giờ tham lam

    MAI HẮC ÐẾ (722)

    Mấy trăm năm , mấy đời Bắc thuộc
    Toàn dân ta trói buộc triền miên
    Bọn quan nha lại đương quyền
    Làm điều thất đức đảo điên lòng người

    Khắp mọi nơi dân tình ta thán
    Mong có người báo hận cho dân
    May thay có bậc thánh nhân
    Quê làng Mai Phụ, Thúc Loan tên ngài

    Cả toàn dân đến nơi Can Lộc (713)
    Một lòng trừ ngoại tộc Bắc Phương
    Thề nay đánh đuổi giặc Ðường
    Trừ quân xâm lược nhiễu nhương giống nòi

    Năm Quý Sửu lên ngôi Cửu Ngũ (713)
    Ngài là người đất cũ Hoan Châu
    Thu về đất nước đã lâu
    Bị Tàu đô hộ cất đầu không lên

    Năm Giáp Dần (714) đuổi tên Ðô Hộ
    Là Sở Khách ra khỏi Giao Châu
    Từ đây sạch bóng quân thù
    Toàn dâm mỡ hội khởi đầu kỷ nguyên

    32 châu thu liền một mối
    Một Vương quyền phục vụ cho dân
    Ngoại giao các nước ở gần
    Lâm Ấp, Chân Lạp, Kim Lân để cùng

    Lập thế chung : Tìm đường giữ nước
    Khai sinh ra chiến lược liên hoàn
    Họp cùng các nước lân bang
    Tạo thành sức mạnh sẵn sàng đấu tranh

    Bốn mươi vạn dân binh các nước
    Làm kinh hồn lũ cướp Bắc phương
    Mười năm ròng rã vua Ðường
    Vạch xong kế hoạch lên đường xuất quân

    Dương Tư Húc làm quan Vệ Tướng (722)
    Tiến quân vào theo hướng Phục Ba
    Húc theo đường cũ đi qua
    Từ Khâm Châu đến chỉ vừa một đêm

    Trong thoáng chốc đã lềnh quân giặc
    Ùa vào theo lối tắt đường sông
    Quân ta bối rối vô cùng
    Những nơi xung yếu lọt vòng bao vây

    Mai Hắc Ðế rời ngay khỏi phủ
    Rút vào rừng đánh trả địch quân
    Binh lương , khí giới hao dần
    Quân cùng lực cạn mười phần còn hai

    Nước độc lập đã mười năm chẵn (712 - 722)
    Ngài mất rồi nhưng vẫn còn đây.
    Tiếc thuong không nói nên lời
    Ðền Mai Hắc Ðế nơi người mệnh chung


    BỐ CÁI ÐẠI VƯƠNG (761 - 802)

    Ba quý tử con Phùng Hạp Khánh (767)
    Vị tướng tài bên cạnh Thúc Loan
    Những trang văn võ song toàn
    Phùng Hưng anh cả lại càng oai phong

    Vật ngã trâu, tay không bắt hổ
    Uy danh kia sấm nổ gần xa
    Hưng binh vì nước, vì nhà (766 - 780)
    Anh hùng hào kiệt nghe qua theo về

    Cờ khởi nghĩa lời thề vì nước
    Quyết tâm giành cho được non sông
    Giúp dân giải thoát khỏi vòng
    Ðã từng nô lệ ở trong tay Tàu

    Vì nô lệ phất cờ đại nghĩa
    Ðánh tan tành khiếp vía ngoại xâm
    Ðánh cho tướng giặc bàng hoàng
    Ðánh cho tơi tả đầu hàng mới thôi

    Cao Chính Bình sợ oai mà chết (791)
    Giặc nhà Ðường kế hết cạn lương
    Vẫn còn ngoan cố không hàng
    Về sau dùng kế Anh Hàng mới xong

    Dẹp giặc xong, làm vua trị nước
    Ở trên ngôi vừa được bảy năm (782)
    Một lòng vì nước vì dân
    Khi ngài tạ thế nhân tâm sụt sùi

    Ngài đã vì mệnh trời , quốc tổ
    Dâng tôn ngai Bố Cái Ðại Vương
    Cầm quyền giữ mối kỷ cương
    Giúp dân bẻ gãy gông cùm ngoại bang

    Con Phùng An thay cha kế nghiệp
    Bị nhà Ðường uy hiếp đánh tan
    Triệu Xương cai trị cử sang
    Làm quan Ðô Hộ An Nam lúc này (791)

    Nửa thế kỷ từ ngày mất nước (790 - 840)
    Cứ mỗi lần, kẻ trước kẻ sau
    Sang làm Thứ Sử Giao Châu
    Tên nào cũng trở thành giàu có thêm

    Tội cho dân lên rừng xuống biển
    Mò ngọc trai, tìm kiếm ngà voi
    Cong lưng tôi mọi cho loài
    Ngoại bang xâm lược tác oai dân mình

  5. #5
    Diamond Member PhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucket
    Ngày gia nhập
    May 2009
    Bài viết
    8.176
    Thanks
    301
    Thanked 3.169 Times in 588 Posts

    Default Ðề: Đại Việt Sử Thi - Hồ Đắc Duy

    DƯƠNG THANH ( 819 )

    Năm Kỷ Hợi (819) Dương Thanh thứ sử
    Người Giao Châu chiêu dụ dân quân
    Phất cờ khởi nghĩa đánh tan
    Giết Lý Tượng Cổ tham tàn hiếp dân

    Mấy năm sau Dương Thanh tử trận
    Người Nam Chiếu Hoàn Ðộạng kéo sang
    Cùng đi có cả Hoàn Vương
    Là vua Lâm ấp lên đường xâm lăng


    NAM CHIẾU XÂM LĂNG ( 858 )


    Năm Mậu dần, An Nam loạn lạc (858)
    Khắp mọi nơi đói khát triền miên
    Bên trong xã hội không yên
    Cõi ngoài Nam Chiếu chiếm nguyên mấy vùng

    Quân Nam Chiếu hung hăng xâm lấn
    Ðuổi quân Ðường đến tận biên cương
    Thành mất, tướng chết thảm thương
    Giết ngay Sái Tập nhà Ðường năm sau (863)

    Quân Nam Chiếu cầm đầu một cõi
    Ðuổi giặc Ðường ra khỏi Giao Châu (863)
    Ðặt viên Tư Tấn ngôi cao
    Từ đây đất Việt thuộc vào người Man

    Quân Nam Chiếu hai lần lấy đất
    Ðường binh thua mất mật Hải Môn
    Quan dân thất đảm kinh hồn
    Vừa bắt vừa giết dễ hơn vạn người

    Nhà Ðường sai Cao Biền sang đánh (846)
    Với mưu đồ bình định Giao Châu
    Chủ trương trấn áp làm đầu
    Xây thành khẩn đất làm cầu giao thông

    Năm Bính Tuất (866) xem xong dự án
    Cao Biền cho đào móng sửa sang
    La Thành xây mới khang trang
    Nhà hơn bốn chục vạn gian để dùng

    Ði một vòng gần hai nghìn trượng
    Ðắp quanh thành một đoạn đê cao
    Vọng lâu liên kết cùng nhau
    Châu mai bốn mặt thêm vào phía trên

    Lại đào kênh Thiên Vy lấy lối (867)
    Ðể ghe thuyền lui tới thông thương
    Về sau dân gọi Cao Vương
    Cao Biền đã ở đất Nam mấy đời

    Ðến năm Tý (880) lòng người không thuận
    Bèn dấy lên tổng tấn công ngay
    Ðuổi tên Tăng Cổn chạy dài
    Lại thêm Nam Chiếu tác oai bên ngoài

    Quân Nhà Ðường không ai cai quản
    Chạy xô nhau kinh mạn bỏ thành
    Nhắm đường Ung Quảng cho nhanh
    Sau lưng để lại vô vàn binh lương

    Thuở bấy giờ dân đang khổ ải
    Một là do quan lại nhà Ðường
    Hai là Nam Chiếu nhiễu nhương
    Chúng cùng cướp bóc phá tan nước mình

    Giặc hai bên mặc tình vơ vét (905)
    Chúng tha hồ càn quét nhân dân
    Núi sông mấy bận qua phân
    Lòng người uất hận chỉ mong có ngày


    KHÚC THỪA DỤ (906 -907)


    Khúc Thừa Dụ vừa ngay khi ấy
    Với danh gia nổi dậy cơ đồ
    Một lòng vì nước mà lo
    Cùng dân khởi nghĩa, đắp mô chiếm thành

    Giặc giả phong “Ðồng Bình Chương Sự”
    Kèm theo chức Tiết Ðộ Sứ quân
    Dụ người mong được lòng dân
    Dịu cơn phẫn uất của dân Việt mình(906)

    Giặc biết đâu, người anh hùng ấy
    Xoay thế cờ đoạt lấy thời cơ
    Cùng dân giữ vững cõi bờ
    Dễ dàng bẻ gãy ý đồ mưu thâm


    KHÚC HẠO (907 - 917)


    Mới ba năm mà người vội thác
    Con : Khúc Hạo gánh vác lên thay (907)
    Một trang anh kiệt nhân tài
    Lấy dân làm gốc vạch ngay tỏ tường

    Nhà cải cách kiếm đường phát triển
    Từ nghèo nàn sẽ biến ấm no
    Tổ chức quản lý phân cho
    Từng châu, từng phủ phải lo chu toàn

    Ðừng đầu Tỉnh là viên Quản Giáp
    Giáp, chia thành từng xã nhỏ hơn
    Lựa người lệnh trưởng khôn ngoan
    Bình quân thế ruộng vuông tròn cho dân

    Lấy an lạc, khoan dung, giản dị
    Làm phương châm cai trị nhân dân
    Cải cách hành chính dần dần
    Quốc gia đổi mặt ngày càng thắm tươi

    Khi tạ thế chọn người kế vị
    Suốt đời vua chỉ nghĩ đến dân
    Giữ cho đất nước hùng cường
    Dân thêm giàu mạnh ngày càng mở mang

    Ðể giang sơn ngày càng vững chắc
    Phải đối đầu với giặc Bắc phương
    Ngoại giao khôn khéo nhún nhường,
    Sứ thần trao đổi bình thường với nhau

    Nơi địa đầu giữ yên biên giáp
    Với Chiêm Thành, Chân Lạp phương Nam
    Phân chia ranh giới rõ ràng
    Ðặt quân canh giữ sẵn sàng chặn ngay

    KHÚC THỪA MỸ (917 - 923)
    Khúc Thừa Mỹ lên thay Khúc Hạo (917)
    Sai sứ thần sang báo vua Lương
    Giữ tình giao hảo bình thường
    Nhận cờ Tiết Việt tượng trưng Phiên thần (919)

    Quân Nam Hán manh tâm chiếm đoạt
    Lý Khắc Chính được cắt đem qua
    Binh hùng tướng mạnh quân xa
    Manh tâm chiếm lại nước ta bấy giờ

    Năm Canh Dần kẻ thù Nam Hán (930)
    Lấy đất đai ở quận Giao Châu
    Ðại La, Hoan , Ái thu vào
    Cất quân mấy vạn đánh vào Champa

    Thứ sử mới tên là Lý Tiến
    Ðược điều sang trợ giúp việc quân
    Nhưng mà thế giặc đã tàn
    Ðại La giữ được mấy phần chung quanh

    Ở Dương Xávang danh Bộ Tướng
    Người họ Dương hào trưởng năm xưa
    Ba ngàn quân sẵn phòng ngừa
    Phất cờ khởi nghĩa diệt chừa ngoại xâm

    Dương Ðình Nghệ phá tan bọn giặc
    Ðuổi thứ sử vây bắt tàn quân
    Giết thêm Trần Bảo hung thần
    Tự xưng Tiết Ðộ Sứ Quân cầm quyền


    DƯƠNG ÐÌNH ( Diên) NGHỆ (931 - 938)


    Dương Ðình Nghệ giữ yên đất nước
    Coi binh quyền mới được bảy năm
    Thì tên Nha Tướng gian thâm
    Là Kiều Công Tiễn manh tâm hại người (937)

    Ham địa vị giết ngay chủ cũ
    Công Tiễn kia dạ thú lòng lang
    Cũng vì ham chức, làm càng
    Rước quân ngoại tộc phá tan cơ đồ

  6. #6
    Diamond Member PhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucketPhotobucket
    Ngày gia nhập
    May 2009
    Bài viết
    8.176
    Thanks
    301
    Thanked 3.169 Times in 588 Posts

    Default Ðề: Đại Việt Sử Thi - Hồ Đắc Duy

    Quyển 3
    Ngô Quyền
    (938-944) đến Ngọa Triều (1009)
    • NGÔ QUYỀN (938-944) • DƯƠNG BÌNH VƯƠNG (945-950) • HẬU NGÔ VƯƠNG (951-965) • LOẠN SỨ QUÂN (966) • ĐINH BỘ LĨNH (968 -980) • ĐINH PHẾ ĐẾ (979 - 980) • ĐẠI HÀNH HOÀNG ĐẾ (980 - 1005) • TRUNG TÔNG HOÀNG ĐẾ (1005) • NGỌA TRIỀU HOÀNG ĐẾ (1005 -1009)


    NGÔ QUYỀN (938-944)

    Tính kể từ đầu năm Mậu Tuất (938)
    Đất nước ta quả thật rối bời
    Lăm le Nam Hán bên ngoài
    Bên trong nội loạn lòng người oán than

    Đất nước chìm trong cơn nguy biến
    Vua Nam Hán muốn chiếm nước ta
    Sai con Hoằng Tháo đem qua
    Binh hùng tướng mạnh để mà xâm lăng

    Chúa Nam Hán chiếu ban mũ áo
    Cho Vạn Vương Hoằng Tháo tiên phuông
    Cử thêm binh mã lên đường
    Chiến thuyền theo hướng Bạch Đằng tiến vô

    Còn riêng y, đóng đô Bác Bạch
    Ở Hải Môn ứng trực sẵn sàng
    Nghe tin quân giặc tràn sang
    Ngô Quyền gấp rút chặn đường , đánh ngay

    Trước giết Tiễn , sau bày thế trận
    Sông Bạch Đằng dụ chúng tiến sâu
    Cọc ngầm từng khoảng cách nhau
    Đợi khi nước lớn trên bàu đổ ra

    Thuyền của ta nhấp nhô mặt sóng
    Tháo tức mình nổi trống tiến quân
    Đuổi theo sát khí đằng đằng
    Quân ta giả chạy, theo giòng nước xuôi

    Rồi đột nhiên ta quay phản kích
    Khi nước triều vừa kịp rút nhanh
    Đánh cho một trận tan tành
    Quan quân tướng giặc thất kinh rụng rời

    Thuyền của địch đâm lòi cọc sắt
    Nát lủng sườn khiến giặc thất kinh
    Nhác trông lại thấy Ngô Quyền
    Oai phong lẫm liệt trên thuyền chỉ huy

    Ta chẻ đôi, phân ly đội ngũ
    Giặc bỏ thuyền lố nhố lên bờ
    Hán quân đâu thể nào ngờ
    Lọt vòng mai phục ta chờ từ lâu

    Địch khiếp vía đâm đầu tháo chạy
    Còn quân ta thấy vậy đánh luôn
    Dồn cho chúng đến cùng đường
    Bắt ngay Hoằng Tháo, trước quân chém liền

    Chúa Nam Hán vật mình đau đớn
    Biết con đà tử trận , phanh thây
    Xác con để lại đất này
    Giận mình không đủ sức tài cứu con

    Bạch Đằng Giang, sông xưa hùng dũng
    Tiếng sóng rền còn vọng đâu đây
    Hồn thiêng chót vót chân mây
    Ngọn cờ độc lập tung bay trên thành

    Người ta bảo có vành áng sáng (898 - 944)
    Khi vua sinh tỏa rạng khắp nơi
    Khí thiêng un đúc nên người
    Tướng đi tựa hổ, nốt ruồi ngang lưng

    Có trí dũng, sức nâng được vạc
    Lúc trẻ thơ mẹ đặt Ngô Quyền
    Cùng con Dương Nghệ kết duyên
    Được phong Nha tướng cầm quyền Ái Châu

    Đất Đường Lâm ơn sâu vũ lộ
    Chọn Loa Thành làm chỗ đóng quân
    Lập Dương hoàng hậu , chiêu đàn
    Đặt ra chức tước cho hàng thân vương

    Chế nghi lễ, đai cân phẩm phục
    Thiết triều đình theo bậc đế vương
    Ngài vừa bốn bảy thì băng
    Ở ngôi cửu ngũ Việt Thường sáu năm (941)

    Một chiến thắng ngàn năm để lại
    Sông Bạch Đằng mãi mãi thiên thu
    Đường Lâm xây dựng cơ đồ
    Ngô Vương lưu dấu để cho đến giờ

    DƯƠNG BÌNH VƯƠNG (945-950)

    Ngô Xương Ngập kế thừa ngôi báu
    Có Tam Kha là cậu của mình
    Di thư Vua viết phân minh
    Giao Kha giúp rập con mình lên ngôi

    Nhưng Tam Kha nuốt lời di chúc (945)
    Tên gian thần thừa lúc ấu vương
    Mon men trở dạ bất lương
    Cướp ngôi của cháu , Bình Vương xưng càn

    Dương Tam Kha mưu gian hại cháu
    Bọn cận thần cho dẫu đa mưu
    Cũng không giấu được ý đồ
    Soán ngôi phản nghịch dở trò mị dân

    HẬU NGÔ VƯƠNG (951-965)


    Ngô xương Văn nhân danh triều cũ
    Cùng hai người họ Đỗ, họ Dương
    Dùng mưu bắt được Bình Vương
    Bảo toàn cơ nghiệp nối giòng họ Ngô

    Văn cùng anh cùng lo việc nước
    Sau Xương Ngập lấn lướt chuyên quyền
    Muốn giành tất cả làm riêng
    Gây nên chia rẽ anh em trong nhà

    LOẠN SỨ QUÂN (966)


    Loạn sứ quân tạo ra thảm cảnh (966)
    Mười hai phe tranh đánh lẫn nhau
    Sứ quân tên họ như sau :
    Lý Khuê, Bạch Hổ, Đằng Châu chiếm thành

    Đất Thái Bình Nguyễn Khoan hùng cứ
    Đỗ Cảnh Thạc, Xương Xí, Nguyễn Siêu
    Lã Đường, Kiều Thuận tiếp theo
    Rồi Ngô Nhật Khánh lại gieo kinh hoàng

    Kiều Công Hãn giành dân với Tiệp
    Loạn sứ quân chém giết lẫn nhau
    Chiến tranh mãi đến năm sau
    Cuối cùng Bộ Lĩnh tóm thâu nước nhà (968)

    ĐINH BỘ LĨNH (968 -980)

    Đinh Bộ Lĩnh vốn là bộ tướng
    Của sứ quân Trần Lãm Minh Công
    Châu Hoan thứ sữ : cha ông
    Quê người ở đất Đại Hoàn Hoa Lư

    Mồ côi cha kể từ thuở bé
    Mẹ họ Đàm quạnh quẽ nuôi con
    Ngày thường với trẻ cùng thôn
    Tréo tay làm kiệu suy tôn mà đùa

    Cầm cờ lau, tay khua nghi trượng
    Chơi như là điều tướng, khiển binh
    Người già thấy thế làm kinh
    Trẻ này sau lớn ắc thành đế vương

    Quả nhiên sau, khương cường khôn lớn
    Đầu quân về dưới trướng Minh Công
    Cùng dân dấy nghĩa xưng hùng
    Sứ quân hàng phục cuối cùng tôn lên

    Vạn Thắng Vương thành tên người gọi
    Bởi mỗi lần trống nỗi xuất quân
    Điều binh tốc thắng như thần
    Khiến cho hùng trưởng quy hàng dưới tay

    Năm Mậu Thìn lên ngai Hoàng Đế (968)
    Dời đô về kinh ấp Hoa Lư
    Đắp thành, bảo vệ kinh đô
    Sáu quân binh mã để lo giữ gìn

    Đại Cồ Việt đặt tên cho nước
    Dùng kinh tế liệu trước cho dân
    Nghiêm minh trái lệnh bất tuân
    Vạc dầu củi sắt để răn mọi người

    Vua lại sai phân chia nhiệm vụ
    Chọn nhân tài để bổ làm quan
    Biên niên, lịch sử rõ ràng
    Ghi từng sự kiện để làm tàng thơ

    Chia binh ra quân cơ mười đạo
    Cấp quân trang, mũ áo chỉnh tề
    Định phân cấp bậc uy nghi
    Đạo, Quân, Lữ, Tốt, Ngũ ghi rõ ràng

    Đinh Tiên Hoàng lập năm hoàng hậu
    Quá yêu con thơ ấu Hạng Lang
    Phong làm Thái Tử thay vương
    Buộc con Đinh Liễn phải nhường cho em

    Năm Bính Tý thương thuyền các nước (976)
    Lần đầu tiên dừng bước đất ta
    Đem dâng phẩm vật lụa, ngà
    Cống triều cốt để làm quà giao thương

    Cuộc ngoại thương đầu tiên từ đấy
    Của nước ngoài muốn cậy nhờ ta
    Bán buôn trao đổi lại qua
    Giữa dân các nước diễn ra trong vùng

    Liễn mất quyền, sinh lòng chiếm đoạt
    Giết Hạng Lang tội ác Việt Vương
    Vì ngôi làm việc bất lương
    Nhẫn tâm đến nỗi coi thường tình thâm (797)

    Việc như thế nẩy mầm bạo loạn
    Tên Đỗ Thích thí mạng nhà vua
    Khi ngài an uống say sưa
    Trong sân cung cấm bấy giờ nữa đêm

    Hắn giết thêm Việt Vương Đinh Liễn
    Rồi trèo tường lén ẩn trong cung
    Bị quan Nguyễn Bặc truy lùng
    Tìm ra hung thủ bên trong lổ vò

    Tên Đỗ Thích bấy giờ bị bắt
    Thân thể y băm nát thịt xương
    Đáng đời răn kẻ làm gương
    Âm mưu thoán đoạt ngôi vương của người

    Việc hại người chung quy là thế
    Chuyện quốc gia phải để vô tư
    Bỏ trưởng mà lấy con thơ
    Lập năm hoàng hậu cơ đồ e hư

    Rước linh cửu vua rồi đem táng
    Mã Yên Sơn thuộc huyện Trường Yên
    Quần thần đưa trẻ cầm quyền
    Vừa tròn sáu tuổi đã lên ngai vàng

    ĐINH PHẾ ĐẾ (979 - 980)


    Quan đại thần Lê Hoàn nhiếp chánh (980)
    Mưu thông gian với cánh họ Dương
    Vân Nga thái hậu tôn vương
    Cùng quan Cự Lạng dọn đường đoạt ngôi

    Vở hài kịch đến hồi ngoạn mục
    Trong triều đình gặp lúc lao đao
    Ngang nhiên nội phủ đi vào
    Quan quân áo trận ào ào nói năng

    ĐẠI HÀNH HOÀNG ĐẾ (980 - 1005)


    Tôn Thập Đạo nối chân Thiên Tử
    Năm Canh Thìn khai thái tân quân (980)
    Tung hô vạn tuế mấy lần
    Vân Nga thái hậu cúi dâng áo bào

    Lẽ đương nhiên nhân nào quả ấy
    Bôĩnh xưa từng lấy vợ người
    Trớ trêu cho cái sự đời
    Vợ mình kẻ khác cướp rồi biết chăng?

    Quê Ái Châu Lê Hoàn xưng đế
    Lấy vợ vua : Dương thị phu nhân
    Lên ngôi Hoàng hậu để gần
    Mười hai trai lớn lần lần phong vương

    Năm Canh Thìn Tống vương hạ chiếu (980)
    Sai Đa Tốn mang biểu thư sang
    Vừa đe, vừa dọa, vừa nương
    Tung đòn tâm lý dọn đường xuất quân

    Tống chia quân ra làm bốn mũi
    Hướng Bạch Đằng đường thủy tiến qua
    Hội quân ở đất Đại La
    Lạng Sơn binh bộ chia ba kéo vào

    Hầu Nhân Bảo làm Giao Châu sứ (980)
    Tôn Hoàng Hưng, Khâm Tộ theo chân
    Lưu Trừng đốc thúc thủy quân
    Hơn ba vạn đứa lên đường vượt sang

    Hầu Nhân Bảo dương dương tự đắc
    Kéo quân vào đi tắt lối sông
    Vừa qua gần tới Chi Lăng
    Bị ta phục kích giết phăng ngay liền

    Giặc khiếp đảm thất điên, bát đảo (981)
    Lê Đại Hành vũ bão tiến công
    Giặc phơi thây chết đầy đồng
    Đánh tan ba vạn quét xong giặc thù

    Bắt Phụng Huân, trói gô Quân Biện
    Giải giặc Tàu về đến Hoa Lư
    Bộ binh Khâm Tộ thua to
    Tống Vương xuống chiếu truyền thu quân về

    Vua nước Tống suy đi tính lại
    Dùng chiến tranh không khỏi thương vong
    Chi bằng đưa chế sách phong
    Giử cho thông hiếu được lòng hai bên

    Lê Đại Hành nắm quyền quân lữ
    Sai Tử An mở lộ Bắc Nam (992)
    Thân hành đánh chiếm Nam Man
    Chém Bê Mi Thuế kinh hoàng dân Chiêm

    Vì trước đó người Chiêm bắt giữ
    Quan Từ Mục , Ngô Tử Canh sang
    Đưa thư hỏi tội Hoàn Vương
    Lâu nay không thấy đưa sang cống triều

    Trăm cung nữ bắt theo về nước (982)
    Lẫn bạc vàng lấy được trong cung
    Nhà sư Thiên Trúc bị cùm
    Theo quân chiến thắng đi cùng di quan

    Vua ra lệnh phá tan tông miếu
    Hủy thành trì quốc bửu thu gom
    Đánh Chiêm một trận thất hồn
    Rửa xong cái nhục dám giam sứ thần

    Đối với Tống dần dần thông hiếu
    Sai sứ thần dâng biểu Ung Hy
    Xin làm tiết trấn biên thùy (985)
    Đến năm Thuần Hóa phong vì Quận Vương (995)

    Khéo ngoại giao khi cường, khi nhược
    Lúc sứ thần Lý Giác sang thăm (987)
    Vua sai Sư Thuận giả làm
    Chèo đò đưa sứ , đối ngâm thơ rằng :

    "Bạch mao phô lục thủy
    Hồng trạo bãi thanh ba"
    Hai người ứng đối ngâm nga
    Giác càng kính phục về nhà tấu lên

    Vua cho trả bọn Quách Quân biện
    Là tù binh trong trận Chi Lăng
    Nhân khi Sứ Tống sang thăm
    Tỏ tình hòa hiếu nhún nhường của ta

    Vua cầm quyền, trông xa thấy rộng
    Là một người lương đống tài cao
    Giỏi tài nội trị ngoại giao
    Giỏi tài khai khẩn vét đào kênh mương

    Năm Quý Mão ( 1003) trên đường thị sát
    Kênh Đa Cái hết nước cạn khô
    Vua liền ra lệnh truyền cho
    Quân dân nạo vét để đưa nước vào

    Giặc Cử Long lâu lâu quấy rối
    Vua đích thân di tới Cùng Giang
    Điều quân , bày trận dọn đường
    Kêu trời ba tiếng đánh tràn , giặc tan

    Nam Bình Vương tước phong của Tống
    Vì bãi binh ở Trấn Như Hồng
    Vua Tàu cũng muốn đẹp lòng
    Nên sai sứ đến tâng công cho ngài

    Việc Ất Mùi (995) quan quân Giao Chỉ
    Trăm chiến thuyền trực chỉ Trung Hoa
    Hành quân tốc chiến từ xa
    Như Hồng thị trấn vòng qua đánh vào

    Châu Tô Mậu , Ung Châu nước Tống
    Cũng bị ta chiếm đóng mấy ngày
    Chiếm rồi cho rút ra ngay
    Để mà nhắc nhỡ cho người biết ta

    Sai quan nha đúc tiền Thiên Phúc (984)
    Xây thêm lầu Long Lộc, Trường Xuân
    Dựng nhà trên núi Đại Vân
    Điện vàng, Điện bạc sức dân đổ vào

    Đối với nước tài cao trông thấy
    Nhưng việc nhà chẳng mấy kỷ cương
    Anh em không biết nhún nhường
    Mưu giành ngôi báu tranh vương đoạt quyền

    TRUNG TÔNG HOÀNG ĐẾ (1005)

    Điện Trường Xuân vào năm Ất Tỵ
    Vua băng hà chiếu chỉ truyền ngôi
    Anh em giành giật ghế ngồi
    Cuối cùng Long Việt là người được may

    NGỌA TRIỀU HOÀNG ĐẾ (1005 -1009)

    Lê Long Đỉnh sai người hạ sát
    Giết anh mình để đoạt ngôi vua
    Sửa quan chế đổi triều vua
    Rập khuôn theo đúng kiểu như bên Tàu (1006)

    Mẹ Long Đỉnh tên Hầu Di Nữ?
    Là một người gốc ở Champa
    Hai vua bà đã sinh ra
    Nữa mang máu Việt , nữa là Champa

    Long Đỉnh có : bốn bà hoàng hậu
    Xin Tàu cho mũ áo dát vàng (1009)
    Tống triều chấp thuận gởi sang
    Vua mang ngưu trắng đem dâng Bắc Triều (1007)

    Theo Sử ký lắm điều quái đản
    Được gán cho Long Đĩnh - Minh vương
    Một là dâm đãng bạo tàn
    Hai là ác đức coi thường mạng dân?

    Như chuyện lấy : thằng lằn làm gỏi
    Bắt trẻ thơ ra gọi cho ăn
    Bắt người trấn nước sủi tâm
    Bắt người xẻo thịt, bắt nằm chuồng heo

    Bắt trèo cây cheo leo cao vút
    Đốn gốc để cho rớt xuống chơi
    Lấy cỏ tranh quấn vào người
    Rồi đem đốt lửa vua tôi giải sầu

    Lại róc mía trên đầu sư trọc
    Rồi giả vờ như sóc nhằm gai
    Thả tay vua để dao rơi
    Đầu sư gội máu, vua cười vỗ tay

    Vua lại sai cho người bắt rắn
    Bỏ vào quần để đặng dọa chơi
    Lão bà hoảng vía la trời
    Vỗ tay thích chí vua cười bò lăn

    Lúc thiết triều vua nằm nghiêng ngả
    Bởi vì người đã quá ham mê
    Tửu sắc, dâm dật ê chề
    Mắc thêm bệnh trĩ khó bề ngồi lâu

    Tên "Ngọa triều" bắt đầu từ đó
    Tẩm điện lâu là chỗ vua băng
    Đồng dao lên tiếng hát rằng :
    "Ngọa triều hoàng đế" là thằng quái thai

    Có một điều mà đời chẳng hiểu
    Tại sao vua dâng biểu xin kinh? (1007)
    Đắp đường, dựng cột, đào kênh?
    Đóng thuyền để chở bộ hành sang sông? (1009)

    Trong bốn năm coi trông việc nước
    Đã năm lần chinh phạt phiến quân
    Nếu vua là kẽ hôn quân
    E rằng phải xét cân phân mọi bề

    Nhà Tiền Lê tuyệt dòng từ đấy
    Kỷ Dậu niên triều ấy mất ngôi (1009)
    Cầm quyền hăm chín năm trời
    Thay vua họ khác hai ngày lạ chưa?

    Đã mấy lần cơ đồ nguy biến
    Cảnh sơn hà lâm nạn chiến tranh
    Quốc gia chìm nỗi gập ghềnh
    Cuối cùng vẫn thắng xích xiềng ngoại bang.

Posting Permissions

  • Bạn không thể tạo chủ đề mới
  • Bạn không thể trả lời
  • Bạn không thể dùng tập tin đính kèm
  • Bạn không thể hiệu chỉnh bài
  •