Thư pháp là nghệ thuật viết chữ của người Trung Quốc với các công cụ gọi là văn phòng tứ bảo (bút, nghiên, giấy, mực). Người Trung Quốc thường nói: “Học tập thư pháp khả dĩ tu thân, dưỡng tính, đào dã tâm tình” (học tập thư pháp có thể tu thân dưỡng tính, uốn nắn tình cảm). Với quan niệm này, thư pháp cũng là Đạo (Thư pháp giả, Đạo dã). Người Nhật từ thuở tiếp thu văn hóa Hán đã nhận ra giá trị cao nhã của thư pháp, nên gọi tên là thư đạo (shōdō). Không những thế, sự nghiên tập thư pháp từ đời Hán đến nay đã trở thành môn học hẳn hoi với đầy đủ cơ sở lý luận gọi là thư học.
Nói đến thư pháp là nói đến khổ luyện. Người Trung Quốc thường bảo: “Học thư vô nhật bất lâm trì” (học thư pháp chẳng ngày nào mà không “vào ao”). Thuật ngữ lâm trì ý nói công phu khổ luyện thư pháp. Thư gia Trương Chi đời Đông Hán mỗi ngày luyện viết xong thì rửa bút ở ao, lâu ngày nước đen như mực (Lâm trì học thư, trì thủy tận mặc). Thuật ngữ lâm trì bắt nguồn từ đó. Thời của Trương Chi, giấy chưa phổ biến, luyện chữ chỉ có thể viết trên tơ lụa. Ông tận dụng tất cả vải lụa trong nhà, khi không thể viết thêm được nữa thì đem nhuộm và may y phục.
Giới nghiên cứu Trung Quốc tổng kết rằng, các đại thư gia thường phải mất vài chục năm lâm trì mới thành danh. Vì bái phục công phu lâm trì của Trương Chi nên Vương Hi Chi (đời Tấn) đã bỏ ra 15 năm luyện chữ, bắt đầu từ chữ vĩnh 永 (mãi mãi). Chữ vĩnh bao quát tám nét cơ bản của chữ Hán (gọi là vĩnh tự bát pháp 永字八法) và là bài tập nền tảng cho người mới học thư pháp.
Nhưng vĩnh tự bát pháp chính thức được nghiên cứu có qui củ kể từ nhà sư Thích Trí Vĩnh (tục gọi Vĩnh thiền sư) đời Tùy. Vị cháu bảy đời này của Vương Hi Chi cũng là một tấm gương khổ luyện thư pháp. Ông tu ở chùa Vĩnh Hân, huyện Ngô Hưng. Ông xây lầu và ở trên đó không xuống suốt 40 năm để khổ luyện thư pháp (Đăng lâu bất hạ tứ thập niên), bút cùn vất thành gò. Khi ông thành danh, người người đến xin chữ khiến ngạch cửa bị dẫm nát, phải lấy sắt lá bao lại.
Nhà sư Hoài Tố đời Đường thuở hoa niên nhà nghèo không tiền mua giấy, chỉ khổ luyện trên lá chuối mà thành danh thảo thánh. Vương Hiến Chi thuở nhỏ luyện chữ đã gánh nước đổ đầy 18 chum để làm nước mài mực. Nhờ thế mà thành danh. Hai cha con Vương Hi Chi và Vương Hiến Chi được đời xưng tụng là Thảo thánh nhị Vương. Chữ thảo của họ trở thành khuôn mẫu cho thế nhân nghiên tập từ đời Tấn đến nay.
Những người say đắm thư pháp nhiều vô kể. Mỗi một đời đều có một số đại thư gia, từ vua chúa đến sĩ dân. Đường Thái Tông (Lý Thế Dân) lúc rỗi lấy ngón tay viết chữ trong không khí (trừu không luyện tự), nửa đêm tốc dậy thắp đuốc luyện Lan Đình (mặc tích của Vương Hi Chi).
Lương Vũ Đế cực kỳ hâm mộ mặc tích của họ Vương, cho người đi sưu tầm tất cả tác phẩm của Vương Hi Chi, truyền lệnh cho mọi người trong cung phủ phải lấy các thư thể của họ Vương làm chuẩn, rồi sai Chu Hưng Tự soạn Thiên Tự Văn và cho người mô phỏng bốn thư thể chân, thảo, lệ, triện của họ Vương mà chép Thiên Tự Văn để dạy chữ Hán và thư pháp cho các con em trong cung phủ.
Chu Hưng Tự là văn quan kỳ tài, chỉ dùng 1000 chữ Hán cơ bản viết thành từng câu bốn chữ (không chữ nào lập lại) mà giảng giải được mọi lý lẽ trên đời. Tác phẩm nổi tiếng này không chỉ là sách giáo khoa khải mông (dạy trẻ) từ đời Lương đến đời Thanh mà còn là bí kíp rèn luyện thư pháp cực kỳ quan trọng cho đến ngày nay.
Trí Vĩnh thiền sư sao chép 800 bản Thiên Tự Văn theo chữ hành và chữ thảo phổ biến cho các tự viện. Các thư gia đều có bản Thiên Tự Văn với thư thể của riêng mình, như Âu Dương Tuân đời Đường, Triệu Mạnh Phủ đời Nguyên, vv... cho đến các thư pháp gia Trung Quốc hiện đại.
Lịch sử phát triển của thư pháp xuôi theo lịch sử phát triển của chữ Hán. Các thư gia Trung Quốc nhiều vô kể, mỗi người chuyên trị một thư thể, có người vừa là thư gia vừa là họa gia, nếu liệt kê đầy đủ phải là một danh sách dài dằng dặc.
Việc học thư pháp xưa nay khởi đầu bằng khải thư, khi thuần thục mới chuyển sang hành thư và thảo thư hoặc triện thư. Người học thư pháp luôn cần có thầy, không thể nào tự học được, phải chứng kiến kỹ pháp của thầy mới lĩnh hội được bút ý, có những kỹ pháp cần giảng giải trực quan không thể nào đọc sách mà hiểu.
Vai trò của thầy rất quan trọng: phá mê và giải hoặc. Người mới học thường có ảo tưởng về nét bút của mình, người thầy phải chỉ ra những nét sai của họ, đó là phá mê. Giảng cho họ những điều chưa thông suốt hay hoài nghi, đó là giải hoặc. Nhiều học viên quá nôn nóng, muốn đốt giai đoạn nên bắt đầu tự học hành thư và thảo thư. Hậu quả tai hại là nét bút không có gân cốt, muốn quay về luyện khải thư thì cũng khó: nét bút đã thành bệnh tật.
Thế hệ nhà Nho tiền bối của Việt Nam có rất nhiều vị thư pháp rất đẹp như Phan Thanh Giản, Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Long Cát, vv... Nhưng giới nghiên cứu Hán Nôm chưa có ai quan tâm nghiên cứu về mảng thư pháp trong di sản Hán Nôm của tổ tiên để lại, thật là đáng tiếc. Hiện nay ở Việt Nam, cụ Lê Xuân Hòa là thư gia rất nổi tiếng khắp trong và ngoài nước.
Thư pháp là một đề tài rất rộng không thể nào gói ghém trong một hai trang giấy, thành thử bài viết này chỉ là tản mạn đôi nét khái quát về một môn nghệ thuật tao nhã mà thôi.
Theo Lê Anh Minh (vietsciences.free.fr)