Đau bao tử là một căn bệnh rất thông thường mà chúng ta ai cũng có thể bị. Người ta ước đoán cứ trong 10 người sẽ có một người đau bao tử.
Đau bao tử là gì?
Người Việt chúng ta dùng chữ đau bao tử để diễn tả tình trạng đau bụng (dyspepsia) khi bao tử bị kích thích bởi quá nhiều chất acid. Danh từ y khoa gọi là “peptic ulcer disease”. Thật ra, chữ peptic ulcer disease có một nghĩa rộng lớn hơn; diễn tả trạng thái khi bất cứ phần nào trong hệ thống tiêu hóa, chẳng hạn như thực quản, bao tử, ruột non v.v.. bị loét lở. Vì thế để nói một cách chính xác, nếu bao tử bị loét, ta bị đau bao tử. Nếu tá tràng (phần đầu tiên của ruột non tiếp nối sau bao tử) bị loét, ta bị đau tá tràng. Tuy nhiên để dễ hiểu, tôi xin dùng danh từ “đau bao tử” cho bệnh tật gây ra bởi những vết loét lở trong hệ thống tiêu hóa phần trên (upper gastrointestinal tract), bao gồm miệng, thực quản, bao tử và tá tràng.
Những nguyên nhân chính đưa đến đau bao tử:
Khi thức ăn theo thực quản đi dần xuống bao tử, chúng sẽ được trộn đều với chất acid và một số hóa chất tiết ra từ tuyến nước bọt (salivary glands), bao tử (stomach), tụy tạng (pancreas), gan (liver) v.v. Mỗi một chất hóa học này sẽ đóng một hoặc nhiều vai trò khác nhau trong việc tiêu hóa và hấp thụ thức ăn. Nhờ vào sự co thắt tuần tự của những cơ vòng chạy dọc theo đường tiêu hóa, thức ăn sẽ đi dần xuống ruột non và ruột già, rồi được hấp thụ thẳng vào máu, nuôi nấng từng tế bào trong cơ thể. Để sự hấp thụ và tiêu hóa thức ăn được xẩy ra một cách tốt đẹp, các cơ quan này PHẢI hoạt động một cách rất chính xác và nhịp nhàng.
Bao tử và ruột non được bảo vệ bởi một cơ chế cực kỳ tinh vi. Cơ chế này chịu ảnh hưởng của nhiều dữ kiện khác nhau. Để tránh sự tàn phá mãnh liệt của các chất acid và hóa học do chính mình bài tiết, bao tử và ruột non tạo ra một màng nhầy đặc biệt. Tuy nhiên, nếu bao tử chứa quá nhiều chất acid hoặc/và quá nhiều chất Pepsin, cũng như nếu màng nhầy che chở bao tử quá “mỏng”, chất acid có thể tàn phá tế bào bao tử và ruột non. Tình trạng này lâu dần đưa đến viêm và loét bao tử và ruột non.
Nói một cách dễ hiểu, sau mỗi bữa cơm bao tử bài tiết một số chất acid, vừa đủ để tiêu hóa thức ăn, không hơn không kém. Khả năng điều hòa sự bài tiết chất acid này có thể bị thay đổi vì một hoặc nhiều lý do khác nhau, đưa đến quá nhiều chất acid hoặc quá ít màng nhầy. Ban đầu bao tử hoặc/và ruột non có thể chỉ bị viêm sơ sài (gastritis/duodenitis), lâu dần bệnh trở nặng hơn đưa đến trầy trụa (erosion), nặng hơn nữa sẽ thành loét lở (ulcer), và nếu không chữa đúng cách vết loét có thể bị chảy máu (xuất huyết bao tử) hoặc lủng (perforation).
Hai nguyên nhân chính đưa đến đau bao tử là
1) vi trùng xoắn Helicobacter Pylori
2) các loại thuốc chống đau nhức như Advil, Ibuprofen, Indocin v.v. Những nguyên nhân khác như lo lắng sợ sệt, bị nhiều “stress”, ăn uống không đúng giờ giấc, hoặc ăn quá cay, quá chua, quá mặn v.v. thường chỉ đóng một vài trò phụ mà thôi.
Điều đáng chú ý là thuốc lá và rượu. Thuốc lá làm bao tử và ruột non dễ bị loét lở hơn. Những vết loét lở của người hút thuốc lá có khuynh hướng lớn hơn, xâu hơn và khó chữa hơn.
Rượu hoặc bia nếu uống thái quá có thể tàn phá màng nhầy bảo vệ bao tử và ruột non. Rượu và bia còn có khả năng kích thích bao tử bài tiết nhiều chất chua hơn nên dễ đưa đến loét lở bao tử hơn.
Helicobacter Pylori:
Trong những năm gần đây, người ta nhận thấy mối liên quan mật thiết giữa vi trùng Helicobacter Pylori (tạm dịch là vi trùng xoắn) và bệnh loét lở bao tử và ruột non. Tuy nguồn gốc nguyên thủy của H. Pylori chưa được rõ ràng cho lắm, vi trùng này có khả năng lây từ người này sang người khác một cách tương đối dễ dàng và mau chóng, nhất là ở các nước kém mở mang hoặc những nơi đông dân cư. Tại Hoa Kỳ, khoảng 20 đến 30% người Mỹ trắng ở lứa tuổi 30 đến 4O đã và đang bị nhiễm trùng bởi vi trùng H. Pylori. Người da đen và người Mỹ gốc Mễ bị nhiều hơn. Tỷ số nhiễm trùng tăng dần theo thời gian, khoảng 1% mỗi năm. Vì thế ít nhất một trong 2 người Mỹ trắng từ 65 tuổi trở lên đã và đang bị nhiễm trùng bởi vi trùng này. Tuy chưa có thống kê chính xác cho người Việt Nam, trong chúng ta có lẽ rất nhiều người đang bị nhiễm trùng bởi H.pylori mà không hề hay biết.
Vi trùng này có khả năng sinh sôi nẩy nở trong một môi trường có nồng độ acid rất cao như trong bao tử của chúng ta. Chúng rất khó chữa trị nên bệnh có thể tái phát nhiều lần. Nguy hiểm hơn cả là khả năng thay đổi chất nhiễm thể của tế bào bao tử đưa đến bệnh ung thư bao tử, một trong những bệnh thường xuyên reo tan tóc cho rất nhiều gia đình người Việt chúng ta.
Triệu chứng của đau bao tử.
Triệu chứng chính của đau bao tử là đau bụng. Tuy nhiên, cảm giác, cường độ và thời gian của sự đau đớn có phần thay đổi theo mỗi cá nhân. Triệu chứng có thể chỉ xẩy ra một lần rồi tự nhiên biến mất hoặc tái phát nhiều lần từ ngày này qua tháng nọ. Những cơn đau có thể thay đổi từ rất nhẹ nhàng và mơ hồ đến rất đau đớn và rõ rệt, hoặc có thể lên từng cơn, đau “rêm rỉ” nhiều tiếng đồng hồ phần bụng trên, chung quanh lỗ rốn hoặc/và ở chấn thủy, trước hoặc sau bữa ăn. Khi nhẹ bệnh có thể gây ra những cảm giác như đau “lâm râm”, cồn cào, xon xót, ran rát khó chịu, xình bụng, đầy hơi, khó tiêu. Bệnh nhân còn có thể cảm thấy buồn nôn, nặng nề khó thở sau bữa ăn hoặc không ăn được nhiều vì chóng no.
Một số bệnh nhân loét lở ruột non (duodenal ulcer) có những triệu chứng đau bụng rất rõ rệt, tiêu biểu và dễ chẩn đoán. Những cơn đau rát, nong nóng ở vùng chấn thủy như lúc quá đói bụng bắt đầu khoảng 1 đến 3 tiếng sau bữa ăn. Nhiều khi đang ngủ, họ bị đánh thức dậy bởi những cơn đau bụng rất khó chịu, thôâng thường khoảng 2 – 3 giờ sáng. Những bệnh nhân này hiếm khi bị đau trước bữa ăn sáng. Bệnh nhân loét ruột non thường ăn nhiều lần trong ngày, vì thức ăn hoặc các loại thuốc chống acid như Mylanta, Maalox, Gasviscon v.v. có thể sẽ thuyên giảm những cơn đau trong một thời gian ngắn.
Mặt khác, người bị loét bao tử (gastric ulcer), thường đau lúc no nhiều hơn lúc đói. Bệnh nhân thường có khuynh hướng lớn tuổi hơn và các triệu chứng có phần nặng hơn so với các bệnh nhân loét ruột non. Họ thường cảm thấy đau đớn khó chịu ngay sau bữa ăn. Aên càng nhiều càng đau. Nên họ có thể sẽ ăn ít đi và mỗi ngày một ốm đi.
Một số người không may, bị loét cả bao tử lẫn ruột non, nên bụng đau liên tục, khó chịu ngày đêm. No cũng đau, đói cũng đau. Nếu vết loét nằm gần ranh giới giữa bao tử và ruột non, bệnh nhân có thể bị nôn ói sau mỗi bữa ăn.
Nếu họ còn bị thêm bệnh ợ chua (Gastro-Esophageal Reflux Disease), họ còn có thể cảm thấy nặng lồng ngực, khó thở sau bữa ăn, kèm theo ợ chua, đắng miệng, nước miếng cứ tuông trào hoặc miệng bị khô nhạt. Thức ăn trở nên nhạt nhẽo kém ngon.
Như viết ở trên, nếu bệnh để lâu không chữa, nhất là khi bệnh nhân tiếp tục hút thuốc lá hoặc uống quá nhiều rượu bia, vết loét càng trở nên xâu hơn đưa đến xuất huyết bao tử, lủng bao tử. Đây là những trường hợp cực kỳ nguy hiểm và khẩn trương. Khi xuất huyết bao tử, bệnh nhân có thể trở nên rất mệt, buồn nôn khó chịu và ói mửa. Họ có thể ói ra máu tươi, hoặc máu có mầu gạch cua hoặc mầu nâu đen như bã café. Bệnh nhân có thể mất một số lượng máu quá lớn trong một thời gian rất ngắn, hoặc quá đau đớn một cách rất đột ngột đưa đến ngất xiểu, hôn mê, bất tỉnh và chết. Người ta nhận thấy những người hút thuốc lá có khuynh hướng đau nặng hơn, với nhiều biến chứng trầm trọng hơn, dễ bị lủng bao tử hoặc xuất huyết bao tử hơn, và các vết thương sau khi giải phẫu cũng khó lành hơn. Vì thế số tử vong của người hút thuốc lá với bệnh loét bao tử và ruột non cao hơn bình thường gấp nhiều lần. Đây nói lên tính cách quan trọng của việc bỏ thuốc lá trong công cuộc chữa trị bệnh đau bao tử.
Ngoài ra một số nguyên nhân khác không nhất thiết liên quan đến bao tử và ruột non cũng có thể đưa đến đau bụng giống như những triệu chứng của đau bao tử.
Làm thế nào để tránh bị đau bao tử?
Như trình bày ở trên, đau bao tử có thể được xem là bệnh truyền nhiễm. Trong những môi trường thiếu vệ xinh, hoặc nơi đông dân cư, vi trùng H. pylori có thể truyền từ người này sang người khác một cách tương đối dễ dàng. Tuy nhiên, không phải ai có vi trùng H. pylori cũng sẽ bị loét bao tử. Hơn nữa, không phải ai sinh sống nơi đông gia cư cũng có thể bị lây bệnh, nên qúy vị không phải lo lắng làm gì khi đi ăn cơm tiệm. Hiện nay hội đồng y-khoa Hoa Kỳ chưa có lời khuyên rõ rệt về vấn đề có nên kiêng ăn chung với người có vi trùng H. pylori hay không.
Mặc dù đa số các khoa học gia cho rằng thay đổi cách thức ăn uống không nhất thiết ảnh hưởng đến bệnh đau bao tử, một số bệnh nhân cảm thấy bao tử dễ chịu hơn khi họ ăn uống đều đặn đúng giờ, tránh ăn quá cay, quá chua hoặc quá mặn.
Người có khuynh hướng bị đau bao tử nên tránh uống cà phê, trà hoặc các thức uống có chứa chất caffeine như Coke, Pepsi, Mountain Dew v.v. Ngay cả các loại cà phê đã được loại bỏ chất caffeine (Decaffeinated coffee) cũng có thể kích thích sự bào tiết chất acid từ bao tử.
Nên tránh uống rượu và bia. Nếu uống nên uống lúc bụng no.
Nên tránh hút thuốc lá.
Một số các loại thuốc chống đau nhức khác nhau như Aspirin, Motrin, Advil, Voltaren, Indocin, Alleve v.v. nếu uống quá nhiều, nhất là nếu uống lúc bụng đói, sẽ dễ bị đau bao tử. Nếu cần phải uống thuốc chống đau nhức, những người bị đau bao tử nên uống thuốc có chất acetaminophen như Tylenol. Vioxx và Celebrex là những loại thuốc chống đau mới có thể không gây ra đau bao tử như thuốc Ibuprofen.
Đau Bao Tử * Phần I
Bùi Xuân Dương, MD