Im lặng một lúc, Fiona lại lên tiếng:
- Con che mắt thế gian rất khéo, Meggie ạ! Xưa kia ông ngoại đã mua cho mẹ một người chồng để kiếm một cái tên cho Frank rồi ném mẹ ra khỏi nhà. Số phận của con sẽ không hơn gì mẹ đâu. Con sẽ phải trả giá. Hãy tin đi, rồi đây con sẽ phải trả giá. Mẹ đã mất Frank một cách hết sức đau đớn, nỗi đau đớn nhất của một người mẹ mất con. Đến bây giờ mà mẹ vô cùng... Con sẽ thấy... Rồi con cũng vậy, sẽ mất Dane.
- Con có cách giữ Dane mẹ ạ. Mẹ mất Frank vì không thể đặt Frank vào ngồi chung một cỗ xe với ba. Phần con, nhất định Dane sẽ không có một người cha nào để kìm kẹp. Con sẽ buộc chặt Dane vào Drogheda này, ở đây Dane rất an toàn.
Mùa mưa đến rồi lại qua đi, nhưng nhờ ơn Chúa, cả vùng không phải chịu những trận hạn hán. Thiên hạ nói với nhau sau những năm khó khăn, nay Drogheda được bù lại. Thu nhập của trang trại vượt qua mọi dựđoán, mỗi năm hàng triệu bảng. Ngồi trước bàn viết, Fiona vui ra mặt. Bob vừa ghi thêm vào danh sách nhân công, tên hai thợ chăn nuôi vừa mướn.
Ở tòa nhà lớn, cuộc sống của gia đình Cleary trở nên hết sức dễ chịu.
Sống xa không khí vội vàng của những thị trấn đông dân, hai con của Meggie ít ốm đau. Năm Dane lên mười và Justine mười một, cả hai được gởi đi học nội trú ở Sydney. Dane vào trường Riverview còn Justine vào trường Kincoppal. Lần đầu đưa các con lên máy bay, Meggie ngắm rất lâu hai gương mặt nhỏ bé áp vào cửa kiếng, tay cầm khăn vẫy về hướng nàng. Chưa bao giờ hai đứa rời khỏi nhà đi xa. Meggie hết sức mong muốn được cùng đi với con đến Sydney xem chúng ăn ở ra sao, nhưng tất cả những người trong gia đình đều phản đối dữ dội. Từ mẹ nàng cho đến Jims và Patsy đều cho rằng tốt hơn là hãy để cho Dane và Justine được bay bằng chính đôi cánh của chúng nó.
Ngày tháng qua, Justine nhanh chóng quen thuộc với cuộc sống xa nhà, thích nghe với thành phố Sydney như đã biết nơi đó từ lâu. Mỗi lần về nhà nghỉ hè, Dane còn phần nào quyến luyến Drogheda nhưng còn Justine thì nao nức chờ ngày được sớm quay trở lại thủ đô.
Ngày 4 tháng 8 năm 1952, tờ Diễn đàn buổi sáng Sydney thường khi chỉ đăng một ảnh trên trang nhất. Trong số báo hôm nay, đặt trang trọng ở giữa và trên cao là ảnh chân dung rất đẹp của Ralph de Bricassart:
Đức Tổng giám mục Ralph de Bricassart, hiện là phụ tá Quốc vụ khanh đặc trách ngoại giao Tòa thánh La Mã, vừa mới được Đức Thánh Cha Pie XII phong Hồng Y De Bricassart.
Hồng Y Ralph đã xuất sắc phục vụ trong một thời gian rất lâu Nhà thờ công giáo tại Úc. Ngài đến đấy từ tháng bảy năm 1919, lúc đó vừa thụ phong linh mục cho đến tháng ba năm 1933, ngày lên đường sang Vatican.
Sinh ngày 23 tháng 9 năm 1893 tại Cộng hòa Ireland, Hồng Y De Bricassart là con trai kế của một gia đình có liên quan đến dòng họ Nam tước Ranulf de Bricassart, dòng họ thân cận của William the Conqueror đổ bộ lên nước Anh năm 1066. Vào tu viện năm mười bảy tuổi, Ngài được đưa sang Úc ngay sau khi được thụ phong linh mục và Ngài đã trải qua những tháng đầu tiên trên đất nước chúng ta dưới quyền của cố giám mục Michael Clabby, địa phận Winnemurra.
Tháng sáu năm 1920, Ngài được đổi sang giáo khu Gillanbone, Tây Bắc xứ New South Wales. Ngài tiếp tục phục vụ tại đây cho đến tháng mười hai 1928. Sau đó Ngài làm bí thư cho Đức Tổng giám mục Cluny Dark và tiếp tục nhiệm vụ đó cho Đức khâm mạng Tòa thánh bấy giờ là Tổng giám mục Di Contini Verchese. Chính lúc đó Ngài được phong giám mục, khi Đức Tổng giám mục Di Contini Verchese nhận nhiệm vụ ở La Mã và bắt đầu một sự nghiệp thành công nổi bật tại La Mã.
Ngài De Bricassart được phong Tổng giám mục và từ Athens trở về đất nước chúng ta trong nhiệm vụ đại diện Đức giáo hoàng. Ngài đảm trách sứ mạng quan trọng này cho đến ngày Ngài nhận nhiệm vụ mới ở La Mã năm 1938; từ đó tại trung tâm quyền lực của Giáo hội giáo, sự nghiệp của Ngài không ngừng đi lên một cách ngoạn mục. Hiện Ngài 58 tuổi, được coi là một trong những nhân vật hiếm hoi có ảnh hưởng lớn trong đường lối của Giáo hội.
Đặc phái viên báo “Diễn đàn buổi sáng Sydney†hôm qua đã có dịp trao đổi với nhiều giáo dân trước đây dưới quyền cai quản của Hồng Y De Bricassart tại thị xã Gillanbone. Kỷ niệm về Ngài vẫn còn sinh động và đượm nhiều tình cảm. Vùng chăn nuôi cừu giàu có này đa số theo đạo Công giáo. Linh mục De Bricassart là người xây dựng thư viện Thánh giá, thị trưởng Gillanbone, ông Harry Gough đã nói với chúng tôi. Vào thời đó, thư viện này đã có nhiều đóng góp đáng quí, ngay lúc đầu đã có sự giúp đỡ rất lớn của góa phụ Mary Carson, sau này khi bà qua đời, chính Hồng Y tiếp tục đỡ đần, Ngài luôn luôn nhớ và giúp đỡ chúng tôi.
Hồng Y De Bricassart là một con người tao nhã mà tôi được gặp, bà Fiona Cleary đã nói với chúng tôi. Bà Cleary là một phụ nữ uy tín ở Drogheda, quản lý một trong những trang trại rộng lớn và phát đạt ở Xứ New South Wales. Trong thời gian Ngài ở Gilly, Ngài đã mang lại một sự hỗ trợ tinh thần rất lớn cho giáo dân và đặc biệt cho những người ở trang trại Drogheda, nay thuộc về tài sản của Giáo hội Công giáo. Trong thời gian lũ lụt, Ngài đã giúp chúng tôi cứu các đàn gia súc; Ngài cũng tiếp tay chúng tôi trong những cơn hỏa hoạn, kể cả việc chôn cất những người thân yêu qua đời. Nói tóm lại, đó là một con người phi thường trên mọi lĩnh vực và có một sức quyến rũ rất lớn. Chúng tôi vẫn nhớ Ngài rất rõ dù rằng Ngài đã rời khỏi nơi đây trên hai mươi năm. Vâng, đúng là điều đó đã gây ra trong lòng của rất nhiều người một sự thiếu vắng không có gì có thể bù đắp được.
Trong chiến tranh, Tổng giám mục De Bricassart đã phục vụ Đức Thánh Cha một cách trung thành và kiên trì không gì lay chuyển. Ngài đã vận dụng mọi cách để thuyết phục Thống chết Albert Kesslring tuyên bố La Mã là thành phố bỏ ngỏ sau khi nước àtrở thành thù địch với nước Đức. Florence cũng từng yêu cầu một đặc ân như thế mà không được, đã phải chịu mất nhiều kho báu, và chỉ được phục hồi khi nước Đức bại trận. Những năm sau chiến tranh, Hồng Y De Bricassart đã giúp hàng chục ngàn người di cư tìm được chỗ nương thân ở những nước mới đến và đóng góp tích cực vào chương trình nhập cư của Úc. Dù rằng là người gốc Ireland và trong thực tế, với tư cách Hồng Y, có thể ảnh hưởng của Ngài sẽ không nhiều trên đất nước chúng ta, nhưng điều đó không ngăn cản chúng ta, trên phương diện tình cảm, cho rằng nước Úc có quyền nhìn nhận con người tài ba ấy là một trong những đứa con của mình.
Meggie trả lại tờ báo cho mẹ với một nụ cười buồn bã:
- Chúng ta chúc mừng ông ấy, con đã nói điều này với đặc phái viên Diễn đàn. Nhưng họ không đăng phải không mẹ? - Meggie bình luận. Ngược lại họ cho đăng bài tán tụng ngắn của mẹ gần như nguyên văn. Lời lẽ của mẹ thật là sắc nét! Bây giờ con đã biết Justine giống cách ăn nói đó ở ai! Con tự hỏi có bao nhiêu người tinh khôn sẽ đọc thấy được ý thật của mẹ giữa các dòng chữ.
- Người đó trước hết là ông ấy... nếu ông ấy đọc bài báo.
- Con tự hỏi ông ấy có còn nhớ chúng ta không, Meggie nói thật nhẹ với tiếng thở dài.
- Chắc chắn. Dù sao thì ông ấy cũng sắp xếp được thời giờ để trực tiếp quản lý Drogheda. Dĩ nhiên là ông ấy vẫn còn nhớ chúng ta. Làm sao quên được?
- Đúng thế. Con quên mất trang trại Drogheda này. Chúng ta đang quản lý một cơ ngơi làm ăn có nhiều huê lợi nhất. Chắc hẳn ông ấy sẽ rất hài lòng. Chỉ cần cạo lông cừu đÃ9;n £ có một món lợi trên bốn triệu bảng!
- Con không nên bạc bẽo, vô ơn như thế Meggie ạ. Giọng của Fiona hạ thấp xuống, gần đây bà tỏ ra kính trọng và có tình cảm hơn đối với Ralph. Chúng ta nên mừng cho mình, con biết không? Đừng quên hàng năm tiền vẫn đến với chúng ta dù được mùa hay không được mùa. Ralph vừa chuyển ngân hàng một trăm ngàn tiền thưởng Bob, mỗi chúng ta được năm chục ngàn. Nếu ông ấy buộc chúng ta rời khỏi Drogheda vào ngày mai, chúng ta cũng có dư tiền để mua trang trại Bugela, dù với giá đất đang lên vùn vụt như hiện nay. Và ông ấy đã cho hai đứa con của con bao nhiêu nữa? Hàng chục và hàng chục ngàn bảng. Con nên biết ơn ông ấy.
- Nhưng các con của con đều không hay biết gì về sự ban phát rộng rãi của ông và con sẽ không để chúng biết điều đó. Dane và Justine lớn lên với ý nghĩ là trong cuộc đời chúng hoàn toàn không có sự giúp đỡ của con người thân mến Ralph, Hồng Y De Bricassart.
- Con nghĩ sao nếu ông ấy trở về đây, Meggie?
- Cũng chẳng sao, Meggie đáp lại hơi làm dáng.
- Rất có thể ông ấy trở về đây, Fiona quả quyết với một vẻ bí ẩn.
... Và đúng thế, ông ấy trở về vào tháng mười hai. Một cách kín đáo, không ai được báo trước, trên một chiếc xe ô tô thể thao hiệu Aston Martin mà ông tự lái, khởi hành từ Sydney. Báo chí không hề nói đến sự có mặt của ông tại Úc, và không một ai có thể đoán biết chuyến viến thăm Drogheda của Hồng Y. Khi chiếc xe nhỏ ông dừng lại ở bãi đậu bên hông nhà, không ai nghe tiếng xe và cũng chẳng có ai tiếp đón.
Trong từng cây số từ Gilly đến đây, ông cảm nhận trong da thịt mình nỗi sung sướng được hít vào buồng phổi mùi vị của rừng, của cừu, của cỏ khô lấp lánh liên tục dưới ánh nắng.
Mùa thu đã trở lại ở đây, từ hai tuần trước ngày Noel và những hoa hồng của Drogheda đã đến lúc nở rộ. Ở đâu cũng là hoa hồng, màu hồng, màu trắng, màu vàng, màu đỏ thẫm như máu đọng trong động mạch và cả màu đỏ đậm như chiếc áo của Hồng Y. Giữa những dây đậu tía còn xanh có những cành hồng mềm mại vươn lên, hoa buông xuống mái hiên dọc theo hàng rào mắt cáo, bám vào một cách tình tứ trên những khung cửa sổ màu đen ở tầng lầu thứ nhất, nhánh đưa thẳng lên trời. Các bồn chứa nước đều bị che khuất gần hết. Hình như ông nhận ra một âm sắc bàng bạc khắp các hoa hồng, một thứ màu hồng xám nhạt. Hồng tro? Đúng rồi, đó là cái tên của âm sắc đó. Có lẽ Meggie đã trồng các bụi hồng này, không ai khác hơn là Meggie.
Ông nghe tiếng cười của Meggie và đứng sựng lại, hốt hoảng, nhưng rồi, lại phải đi tới hướng có tiếng cười ấy. Đúng là cái kiểu cười thường có hồi Meggie còn là một cô gái bé tí.
Nàng đang đứng đấy? Ở đằng kia sau một bụi hồng tro, gần cây hồ tiêu? Ralph đưa tay vạch một chùm hoa qua một bên, đầu óc hỗn loạn do mùi thơm tỏa ngát lẫn cái cười rạng rỡ. Nhưng không có Meggie ở đây, Ralph chỉ gặp một cậu bé trai ngồi xổm trên cỏ đang học phá một con heo con. Con heo chạy quanh thằng bé, vụng về trượt ngã. Thằng bé cười hồn nhiên. Tiếng cười Meggie. Thằng bé khoảng mười một, mười hai tuổi, chỉ mặc quần cụt bằng cải kaki mình trần, chân không, da sạm nắng, vai rộng, một thân hình chắc nịch. Tóc nó hơi dài, cuốn thành lọn, màu vàng nhạt như cỏ của Drogheda. Đôi mắt với hàng mi dày và dài đáng kinh ngạc ánh lên một màu xanh biếc. Thằng bé như một thiên thần nhỏ lén lút dạo chơi.
- Chào ông, thằng bé vừa nhìn khách vừa cười.
- Chào chú bé, Hồng Y đáp và bị ngay nụ cười hồn nhiên của thằng bé thu hút.
- Cháu tên gì?
- Dane O'' Neill, thằng bé tự giới thiệu, Còn ông là ai?
- Tôi tên Ralph... Dane O'' Neill.
Như thế thằng bé là con của Meggie. Thế là nàng vẫn chưa bỏ Luke; nàng đã trở lại với anh ta và đã sinh ra thằng bé kháu khỉnh này. Đáng lý nó là con của ông nếu trước đó ông đã không kết hôn với Chúa? Không lớn hơn thằng bé này và chắc chắc lúc ấy ông cũng không già dặn hơn thằng bé. Nếu ông không như thế, thằng bé rất có thể là con của ông. Thật là phi lý, Hồng Y De Bricassart! Nếu anh không kết hôn với Chúa, thì anh vẫn ở lại Ireland chăn nuôi ngựa, vĩnh viễn anh không biết Drogheda, kể cả Meggie Cleary.
- Ba của cháu có nhà không, Dane?
- Ba cháu? Thằng bé lặp lại câu hỏi, chân mày nhíu lại đầy kinh ngạc. Không, ba cháu không có ở nhà. Ba cháu chưa bao giờ có mặt ở đây.
- Ồ, tôi đã hiểu! Vậy thì mẹ cháu có ở nhà không?
- Mẹ cháu đi Gilly nhưng cũng sắp về rồi. Trong nhà có ngoại. Nếu ông muốn gặp, cháu đưa ông vào nhà. Ralph De Bricassart. Cháu đã nghe nói về ông. Nhớ rồi, Hồng Y De Bricassart! Thưa Đức Ngài, xin Ngài tha lỗi. Cháu không muốn tỏ ra thiếu lễ độ đâu.
Mặc dù không mặc quần áo dòng, chỉ mang giày ủng, quần cỡi ngựa và một chiếc áo trắng, Ralph vẫn đeo nhẫn có nạm một viên hồng ngọc, nhẫn này suốt đời ông không thể tuột ra. Dane O'' Neill quỳ gối, nắm lấy bàn tay của Hồng Y đặt vào hai tay mình và hôn một cách kính cẩn chiếc nhẫn.
- Cháu hãy đứng lên, Dane. Tôi đến đây không phải với tư cách Hồng Y mà với tư cách là người bạn của mẹ cháu và bà ngoại cháu.
Bỗng có tiếng gọi vang lên.
- Dane, Dane, em ở đâu?
Một cô bé khoảng 15 tuổi, xuất hiện. Ralph biết ngay là ai, chỉ cần nhìn đôi mắt và tóc cô bé. Đúng là con gái của Meggie.
- Ồ, chào ông. Xin lỗi ông. Cháu không biết có khách. Cháu là Justine O'' Neill.
- Jussy, đây là Hồng Y De Bricassart! Dane nói nhỏ với Justine. Hãy hôn ngay chiếc nhẫn của Ngài nhanh lên!
- Cứ gặp chuyện gì dính dấp đến tôn giáo là lúc nào em cũng vớ vẩn, - cô bé nói không cần hạ thấp giọng - Hôn lên một chiếc nhẫn là ngược lại các quy tắc vệ sinh. Hơn nữa, cái gì chứng minh rằng đây thật sự là Hồng Y De Bricassart? Chị thấy ông ấy giống một người chăn nuôi theo lối cũ. Em biết không, không khác ông Gordon.
- Đúng là Đức Hồng Y, chính ông ấy, Dane cả quyết. Em năn nỉ chị, chị hãy chìu em đi, ráng tỏ ra dễ thương một chút.
- Chị sẽ tỏ ra dễ thương vì em, và dù có muốn chìu ý em chị cũng không hôn lên chiếc nhẫn đâu. Gớm lắm. Làm sao chị biết rõ ai là người cuối cùng hôn lên chiếc nhẫn này. Biết đâu một người nào đó bị bệnh cúm.
- Hôn lên nhẫn tôi là vô ích, Justine. Tôi đến đây để nghỉ hè. Lúc này, tôi không phải là Hồng Y.
- Ông có cần chúng tôi dẫn đường gặp ngoại? Justine hỏi
- Không, cám ơn cháu. Tôi biết đường.
Muốn gặp Fiona thì có nơi nào khác hơn là trong văn phòng? Ralph đi và một cửa nhỏ, Fiona nghe tiếng động nhưng vẫn tiếp tục làm việc. Lưng hơi còng, mái tóc màu vàng rực rỡ trước kia nay đã bạc trắng. Khó khăn lắm, Ralph mới nhớ lại năm nay bà đã bảy mươi hai tuổi rồi.
- Kính chào bà Fiona.
Khi bà ngước nhìn lên, Ralph nhận ra ngay sự thay đổi ở người phụ nữ này, tuy thế ông vẫn không hiểu ra thái độ lạnh lùng của Fiona. Vẫn như lâu nay, trong bà có cả sự mềm mại lẫn cứng rắn, do đó trở thành nhân bản hơn, nhưng lại nhân bản theo kiểu bà Mary Carson. Chúa ơi, cái chế độ mẫu quyền ở Drogheda! Rồi nó cũng sẽ xảy ra như thế với Meggie sau này chăng?
- Chào Ralph - bà đạp lại tưởng như Ralph vẫn bước qua cửa nhỏ này hàng ngày. Tôi rất vui mừng gặp ông.
- Tôi cũng thế, rất vui mừng gặp lại bà.
- Tôi không biết rằng ông đang có mặt tại Úc.
- Không một ai biết. Tôi đi nghỉ hè vài tuần.
- Tôi hy vọng rằng ông sẽ nghỉ tại đây chứ?
- Làm sao tôi có thể nghỉ ở nơi nào khác? Bà có một khiếu thẩm mỹ đặc biệt, bà Fiona ạ. Căn phòng này không thua bất cứ căn phòng nào ở Vatican. Các cửa sổ hình trái soan màu đen với những hoa hồng nổi bật, thật là một nét thiên tài.
- Cảm ơn ông. Chúng tôi ráng làm những gì trong khả năng của mình. Nhưng tôi tự hỏi tại sao mình lại phải khổ cực như thế. Nhà này là của ông, chớ đâu phải của chúng tôi.
- Phải chờ đến khi nào không còn một người mang dòng họ Cleary thì điều bà nói mới đúng. Ralph trả lời một cách bình thản.
- Điều ông nói làm cho tôi thật yên tâm làm sao! Cho phép tôi được nói điều này: ông đã đạt nhiều thành công từ khi làm linh mục ở Gilly. ông có đọc bài báo trên tờ Diễn đàn?
Ralph không tránh né được:
- Tôi có đọc. Lời lẽ của bà thật là bén, bà Fiona ạ!
- Vâng, hơn thế ấy nữa, tôi cảm thấy thích thú được nói những điều đó, sau bao nhiêu năm thu mình lại chẳng nói một lời... Meggie đi Gilly nhưng sắp về.
Dane và Justine đi vào ngã cửa nhỏ.
- Ngoại ơi, tụi con cỡi ngựa đi dạo đến Borehead được không? - Justine nói với Fiona.
- Con biết luật lệ rồi. Không được dạo bằng ngựa mà không có phép của mẹ con. Bà ngoại không thể làm khác, đó là lệnh của mẹ con. Ô hô! Các con quên điều sơ đẳng của sự lễ phép. Hãy đến đây trình diện với khách quí của gia đình.
- Con đã gặp rồi. - Justine nói ngắn ngủn.
- Ồ...
- Thưa Đức cha, Đức cha có định nghỉ lại lâu không? Dane hỏi với sự ngưỡng mộ
- Đức cha sẽ ở lại đây với chúng ta cho đến chừng nào Đức cha muốn, Dane ạ. Fiona nói chen vào. Có điều là ngoại rất mệt tai khi nghe con không ngớt thưa bẩm Đức cha. Các con nên gọi bằng gì nào? Cậu Ralph?
- Cậu! Justine kêu lên. Không được đâu, ngoại? Các cậu đã có cậu Bob, cậu Jack, Hughies, Jims, Patsy. Vậy chỉ nên gọi Ralph vắn tắt thôi.
- Không được hỗn, Justine! Fiona cắt ngang.
- Không sao đâu, Fiona, Justine nói đúng. Tôi vẫn thích mọi người gọi giản dị cái tên Ralph, - Hồng Y can thiệp vào dứt khoát, lòng tự hỏi tại sao con bé lại tỏ ra đố kỵ với mình như thế.
- Con không thể gọi bằng bên Ralph đâu. Dane phản đối, giọng xúc động.
- Được, không sao, Dane. Cũng chẳng tội lỗi gì đâu.