Tiếng chim hót trong bụi mận gai
Chương 10
Cha Ralph quan sát Meggie một cách trìu mến. Cô bé đang chải mái tóc màu hung và uốn lọn cho Patsy đứng không vững trên hai chân bé nhỏ, trong khi Jimes đứng kế bên chờ đến phiên mình. Cả hai nhìn chị bằng cái nhìn đầy thương yêu. Đúng là một bà mẹ tí hon. Tấm lòng ấy phải là một đức tính bẩm sinh ở Meggie - cha Ralph nghĩ thầm.
Trong một lúc cha Ralph bị thu hút bởi cảnh thân mật dễ thương này. Ông thả lỏng chiếc roi da xuốn đôi giày bốt đầy bụi, rồi đưa mắt u buồn nhìn qua hiên, hướng về tòa nhà lớn khuất sau những cây bạch đàn và các thứ cây leo khác, biệt lập với căn nhà của người quản lý và cuộc sống còn lại của điền trang.
Giữa cái mạng lưới nhện rộng bao la ấy, con nhện già đang toan tính giăng ra một kế nào nữa?
- Cha ơi, cha không nhìn đây! Meggie kêu lên trách móc.
- Cha xin lỗi con! Cha đang suy nghĩ.
Ông quay lại nhìn Meggie đúng lúc cô bé vừa chải xong cho Jimes. Cả ba đang theo dõi ông, chờ cái lúc ông nghiêng mình xuống để bế hai chú bé con sinh đôi, mỗi đứa một bên hông.
- Chúng ta hãy cùng nhau thăm bà Mary. Ông nói.
Meggie đi theo sau cha Ralph trên con đường dẫn đến ngôi nhà lớn, một tay cầm cây roi da của linh mục và một tay dắt cương con ngựa cái lông hai màu. Còn linh mục bế hai đứa bé không có vẻ gì mệt nhọc mặc dù từ đó đến tòa nhà lớn xa hơn một cây số rưỡi. Vào phía sau nhà bếp, cha Ralph lần lượt trao hai đứa bé cho bà Smith đón nhận chúng một cách sung sướng. Cha đi thẳng ra nhà trước, Meggie theo bên cạnh.
Mary Carson đang ngồi trên chiếc ghế bành đặc biệt cho mình. Lúc này, bà ít khi rời khỏi ghế, hơn nữa, sự có mặt của bà cũng không còn cần thiết vì Pađy lo liệu tất cả một cách giỏi giang. Khi cha Ralph bước vào, cầm tay Meggie, thì cái nhìn đầy ác cảm của bà già buộc ngay cô bé phải nhìn xuống đất; cha Ralph nghe được tiếng tim đập nhanh của Meggie, càng nắm chặt cổ tay của cô bé truyền sang nó niềm an ủi và sự âu yếm. Cô bé nghiêng người xuống chào một cách vụng về, miệng ấp úng mấy câu thưa gửi.
- Cô bé đi ngay ra phía sau nhà bếp chơi. Cháu uống trà với bà Smith - Mary Carson ra lệnh một cách lạnh lùng.
- Tại sao bà không thương nó? Cha Ralph vừa hỏi vừa buông mình xuống chiếc ghế mà ông hiểu rằng Mary Carson dành cho ông.
- Bởi vì cha thương nó - bà trả lời.
- Thôi đi! Cha Ralph phản đối, lần thứ nhất thấy mình ở vào thế yếu - Con bé chỉ là đứa trẻ cô độc, bà Mary ạ.
- Nhưng cha đã không nhìn nó dước góc cạnh đó, chính cha cũng biết điều ấy
Cặp mắt xanh đẹp nhìn bà một cách mỉa mai; ông cảm thấy thoải mái hơn.
- Bà nghĩ rằng tôi có những quan hệ tội lỗi với trẻ con? Dù sao tôi cũng là linh mục.
- Trước hết cha là một người đàn ông, Ralph de Bricassart! Làm linh mục - điều đó chỉ mang đến cho cha một cảm giác an toàn, có thế thôi.
Bất ngờ và bối rối, cha Ralph cười. Không hiểu vì sao, ông cảm thấy thấy mình bất lực, không có khả năng so gươm với bà ngay hôm đó; hình như bà đã khám phá ra chỗ nhược của chiếc áo giáp và bà đã khoan vào đấy bằng nọc độc của con nhện. Có lẽ ông đã thay đổi nhiều, đã già đi, chấp nhận thích nghi với cuộc sống lu mờ ở Gillabone. Ngọn lửa tắt dần trong lòng ông hay là nó dã cháy lên với một niềm say mê khác?
- Tôi không phải là một người đàn ông - ông vặn lại - Tôi là linh mục...
- Ồ, Ralph, cha đã thay đổi nhiều quá - bà chế giễu - Phải chăng tôi đang nghe chính đức Hồng Y De Bricassart nói?
- Không hề có chuyện đó, ông nói, cái nhìn có một thoáng tuyệt vọng che khuất. Tôi không nghĩ rằng tôi còn muốn tiến lên trên những tầng cao ấy.
Bà Mary cười lớn, người nghiêng ra trước rồi ngả ra sau trên chiếc ghế bành, nhưng không một giây lơi quan sát cha Ralph.
- Có thật thế không Ralph? Cha không còn muốn nữa? Thế thì, tôi sẽ để cho cha mốc meo ở đây thêm một thời gian, nhưng rồi cái ngày đền tội của cha sẽ đến, không thể nghi ngờ. Tôi là hiện thân Quỷ Xa tăng đối với cha và tôi sẽ hiến dâng cho cha... Thôi, tôi đã nói đủ rồi! Nhưng đừng có nghi ngờ, tôi sẽ bắt cha chịu sự nhục hình. Cha là người đàn ông hấp dẫn nhất mà tôi gặp. Cha ném cái đẹp của cha lên đầu chúng tôi, đồng thời lại khinh miệt những sự yếu đuối của chúng tôi. Nhưng tôi nhất định sẽ ghim cha lên tường và bằng cách khai thác chính những chỗ yếu của cha, tôi sẽ buộc cha tự bán mình như một con điếm son phấn lòe loẹt. Cha có tin như thế không?
Ông bật ngửa ra sau, cười.
- Tôi không nghi ngờ là bà sẽ thử làm việc ấy nhưng tôi không tin bà hiểu tôi như bà tưởng.
- Không hẳn. Thời gian sẽ trả lời cha, Ralph, chỉ có thời gian thôi. Tôi đã già, với tôi không còn gì khác hơn là sự chờ đợi.
- Thế thì bà nghĩ tôi có cái gì khác hơn à? - ông hỏi lại. Cũng là thời gian mà thôi, bà Mary, chỉ có thời gian. Thời gian, cát bụi và muỗi mòng.
Một hôm, bé Hal ho; hơi thở khó, mệt nhọc từng lúc và sức khỏe xuống rất nhanh. Pađy lên nhà lớn gọi điện thoại nhưng bác sĩ lại ở cách đây hơn 60 cây số và ông ta đang đi thăm một bệnh nhân khác.
Meggie không tin Hal sẽ chết, ngay cả khi Fiona và Pađy quỳ bên giường, tuyệt vọng, đọc kinh cầu nguyện cho Hal. Nửa đêm, Pađy gỡ hai tay của Meggie đang ôm Hal rồi bế thân xác nhỏ bé cứng đơ của Hal đặt nhẹ nhàng lên giường.
Bấy giờ, Meggie choàng mở mắt. Cô bé đã thiếp đi lúc Hal không còn giãy giụa nữa.
- Ba ơi, Hal có đỡ không ba?
Pađy lắc đầu.
- Không, Meggie ạ. Hal không đỡ chút nào như con mong, em đã yên nghỉ rồi. Hal đã trở về với Chúa, thế là không còn đau khổ nữa.
- Không, ba ơi, em không chết. Không thể thế được.
... Meggie ngồi trên ghế hai tay đặt lên đầu gối. Hal thuộc về cô bé nhưng Hal đã chết. Chú Hal mà Meggie đã thương yêu, săn sóc, dỗ ngủ nay đã không còn.
Cha Ralph đã bắt gặp Meggie như thế khi bước vào nhà cùng với một bác sĩ đi theo. Sau đó không lâu thì bác sĩ đi ra. Ông không thể làm gì khác hơn vì ở cách quá xa bệnh viện, phương tiện y tế lại thiếu.
Sau đó, nhiệm vụ của cha Ralph cũng xong. Pađy tìm Fiona, còn Bob và các anh trai của Meggie thì xuống xưởng mộc để đóng cái hòm.
Quên rằng mình đang choàng chiếc khăn lễ màu tía trên cổ, cha Ralph cúi xuống thổi bếp bùng lên. Ông vặn thấp ngọn đèn đặt trên bàn phía sau rồi ngồi trên chiếc ghế dài đặt trước mặt Meggie để có thể quan sát cô bé rõ hơn. Meggie đã lớn; cô bé đã mang hia bảy dặm, có khả năng bỏ lại cha Ralph đằng sau. Ông cảm thấy mình ngày càng rối loạn lên dữ dội khi nhìn lại cả chiều dài của một cuộc đời đầy rẫy những hoài nghi và ám ảnh. Nhưng ông sợ cái gì? Cái gì đã làm cho ông nghĩ rằng nếu nó xuất hiện thì ông không thể đối đầu? Ông có thể vững vàng với những người khác; ông không sợ; nhưng nơi ông, sự chờ đợi cái điều không thể giải thích ấy đang len vào trong ý thức của ông, giữa lúc mà ông ít chờ đợi nhất thì ông biết sợ. Trong khi ấy Meggie, sinh ra sau ông 18 năm, đang lớn lên, bước trước ông rất xa.
Meggie không phải là một nữ thánh, càng không phải là một cô bé gái như mọi cô bé gái khác. Meggie không bao giờ than vãn, lại có cái đức tính bẩm sinh - hay đó là một bất hạnh - là sự chịu đựng. Trước bất cứ chuyện gì hoặc xắp xảy ra cô bé đều đối đầu và chấp nhận hết để đốt cháy thêm ngọn lửa trong lòng. Hay là ý tưởng mà ông đã có về Meggie chỉ là tấm gương phản chiếu những ảo tưởng của chính ông.
- Ồ, Meggie - ông thì thầm với một tiếng thở dài bất lực.
Meggie quay lại nhìn cha Ralph đột ngột và từ niềm đau khổ tột cùng cô bé mỉm cười như gửi đến cha Ralph một nụ hôn yêu thương tuyệt đối, tràn trề, không ẩn giấu bất cứ điều gì; những điều cấm kỵ và ức chế của một người phụ nữ chưa có thế giới riêng tư, còn ngây thơ của Meggie.
Được yêu như thế làm cho cha Ralph bàng hoàng, như bị thiêu đốt; ông đã phải xin Thượng đế - dù cho trước đây lắm lúc ông đã nghi ngờ sự hiện hữu - hãy biến ông thành bất cứ một con người èao khác trong cuộc đời này, miễn là không phải Ralph de Bricassart. Có phải chăng chính đó la điều không thể giải thích trong ông? Thượng đế ơi, tại sao tôi lại yêu thương cô bé đến thế? Nhưng cũng như mọi khi, không có ai trả lời cho ông. Ngồi im trước mặt, Meggie vẫn tiếp tục mỉm cười với ông...
Cuộc sống tiếp diễn theo cái vòng tuần hoàn vĩnh cửu, đều đặn của trái đất, mùa hè kế tiếp mang những cơn mưa đến làm đầy con suối và các bồn chứa, tưới mát những rễ cây khát nước, giữ chặt trên mặt đất những cơn bụi điên cuồng. Bọn đàn ông mừng rỡ muốn khóc khi làm những công việc mùa vụ, yên tâm không phải mất công chở cỏ khô để nuôi cừu.
Drogheda biệt lập với thế giới còn lại, chỉ có đọc sách là cách tiếp xúc duy nhất với bên ngoài. Nhưng không như Wahine có thư viện lưu động, ở đây chỉ trông cậy vào Ralph. ông cung cấp cho các gia đình ham đọc ở Drogheda những quyển sách lấy từ tủ sách của chính ông và của tu viện.
Vào thời đó, cuốn sách ướt át nhất cũng chỉ dám tả một nụ hôn trong sáng, chứ không đi xa hơn.
Trong sự biệt lập ấy, Meggie hoàn toàn không hiểu được cả cái ý nghĩa của khái niệm những thực tế của cuộc sống vì rằng điều kiện thực tế đã ngăn chặn mọi ngả đường khám phá. Cha của cô dựng lên một rào chắn kiên cố giữa đàn ông phụ nữ trong gia đình; các đề tài như gây giống hay giao phối của súc vật không bao giờ được đề cập trước mặt Meggie và đàn ông không bao giờ xuất hiện trước mặt cô bé mà không ăn mặc đàng hoàng. Loại sách có khả năng soi sáng một chút gì đó cũng không tới Drogheda. Meggie không có bạn gái cùng lứa tuổi để tăng thêm sự hiểu biết. Cuộc sống của cô bé chỉ quanh quẩn vào những công việc trong nhà và những vùng lân cận, hoàn toàn không có một hoạt động nào dính dấp đến giới tính. Các sinh vật ở vùng đất này đều không sinh đẻ. Mary Carson không gây giống ngựa; bà mua ngựa của Martin Jang ở Bugela. Ở trang trại có một con bò rừng, con vật hung dữ không cho mọi người léo hánh tới. Mấy con chó thì bị cột trong chuồng; lấy giống được coi như một công việc khoa học và diễn ra dưới mắt lành nghề của Pađy và Bob. Thời giờ không phải để chăm sóc mấy con heo, vả lại Meggie cũng rất ghê tởm chúng dù phải nuôi. Nói cho đúng là Meggie không có thời giờ cần thiết để nghĩ đến bất cứ chuyện gì ngoài hai đứa em trai. Sự dốt nát này kéo theo sự dốt nát khác; một cơ thể và một bộ óc không được kéo ra khỏi cơn ngủ thì cứ tiếp tục ngủ, mặc các sự kiện mà con người vừa mở mắt đã ghi nhận được tất cả.
Vài hôm trước sinh nhật lần thứ 15 của Meggie, giữa cái nóng oi bức của mùa hè lên đến gần cực điểm, Meggie bỗng chú ý thấy những vết nâu nâu từng vệt dính trong quần lót . Sau đó một hai hôm không thấy gì nữa nhưng sáu tuần sau, các vết ấy lại xuất hiện trở lại. Sự mắc cỡ ở Meggie biến thành sợ hãi. Lần đầu, cô nghĩ là do mình giặt quần áo không sạch, thật là nhục; nhưng qua lần xuất hiện thứ nhì, sự hoài nghi không cho phép nữa, chắc chắn không thể chối cãi đây là máu . Meggie không có một chút khái niệm gì về nguyên nhân sự chảy máu ấy nhưng cô tưởng tượng là nó chảy ra ở phía sau. Sự chảy máu rỉ rả ấy biến đi sau ba ngày và không trở lại trước hai tháng sau; Meggie lén lút giặt quần lót, không ai hay biết vì ngày thường cũng chính Meggie đảm trách phần giặt giũ quần áo cho mọi người trong nhà.
Hiện tượng chảy máu lần kế tiếp kèm theo sự đau đớn, sự đau đớn nhiều nhất từ trước tới này, hơn cả những cơn đau dạ dày. Và lần này, máu chảy cũng nhiều, thật nhiều. Cô ăn cắp vài miếng tã lót cũ của hai em trai sinh đôi và đặt ở trong quần lót, với nỗi lo sợ kinh khủng máu có thể chảy ra tới bên ngoài.
Cái chết đã mang Hal đi được Meggie hiểu như sự xuất hiện của một hiện tượng siêu tự nhiên, nhưng còn cái gì đó đang chảy âm ỉ từ trong người của Meggie thì lại gây cho cô một nỗi kinh hoàng. Bằng mọi cách Meggie phải đi tìm mẹ hoặc cha để thông báo rằng mình sắp sửa chết do một bệnh tật nhục nhã, khó nói cho ai biết. Chỉ duy nhất với Frank, cô mới có thể thổ lộ nỗi lo âu của mình, nhưng giờ đây anh ấy đang ở quá xa và không biết cách nào mà tìm. Meggie có nghe những người phụ nữ lớn tuổi giữa lúc uống trà đã nói với nhau về những khối u và ung thư, về những cái chết khủng khiếp của những người bạn và những người bà con sau những tháng dài đau đớn. Và Meggie tin rằng một hiện tượng tương tự cũng đang ngốn bên trong cơ thể âm ỉ, tiến sâu vào trái tim hoảng hốt của Meggie. Ôi, cô bé không muốn chết chút nào!
Những hiểu biết tương đối về cái chết lại rất mơ hồ đối với Meggie nhưng cô rất sợ hãi và không bao giờ muốn chết. Meggie không thể tưởng tượng được mình sẽ ra sao trong cái thế giới bên kia. Với Meggie, tôn giáo chẳng khác gì một loạt luật lệ hơn là cuộc sống tinh thần, do đó tôn giáo không giúp gì được cho cô cả.
Sự lặng lẽ xâm chiếm Meggie, sự yên tĩnh ấy không thể so sánh với nỗi cô độc êm đềm và mơ mộng của Stuart. Ở Meggie sự lặng lẽ đó có cả chút sợ hãi sửng sốt của một con thú bị rắn thôi miên. Khi có ai hỏi đột ngột, Meggie giật nẩy người, nếu các đứa em trai gọi Meggie bằng cách hét to lên, Meggie sẽ chạy hốt hoảng và tự trách mình sao sơ sót. Và cứ mỗi khi lợi dụng được giây phút hiếm hoi ngơi nghỉ, Meggie liền chạy nhanh ra nghĩa trang để tìm lại Hal, cái chết duy nhất mà cô được biết.