Chương III

Trại tị nạn Goldberg nằm ven khu rừng thông xanh đen nam ngoại ô thành phố. Đầu mùa hè, chỉ sau vài cơn mưa, trên mảnh đất hoang sau trại, mọc lên cơ man, xanh um từng đám rau muối, rau dền. Sang thu, đám đất sát rừng, cúc dại rộ từng vạt hoa li ti, trong ráng chiều, rực lên màu vàng hoang dã.

Làn sóng tị nạn tràn vào nước Đức, sau khi bức tường Berlin sập đổ, đẩy nhiều tiểu bang Tây Đức vào tình trạng thiếu nhà ở cho hàng chục ngàn tị nạn. Để số người đủ sắc tộc không tập trung quá đông, làm sáo trộn những khu dân cư, vốn nề nếp và yên tĩnh, Sở quản lí ngoại kiều tiểu bang cho chở về bãi bìa rừng Goldberg, có đến trăm thùng Container, mỗi cái hơn hai chục mét vuông. Máy móc và thợ chuyên nghiệp kéo tới, cắt, đục, hàn sì… loé sáng suốt ngày đêm, ghép, chồng Container, rồi liên kết chúng lại, tạo thành năm khu nhà hai tầng. Tầng trên, có hai dãy phòng ở cho trại viên, giữa có lối đi chung. Tầng trệt, nửa để ở, một nửa làm nhà ăn, nhà bếp chung và phòng tắm giặt. Nhìn phơn phớt, khó ai biết những căn phòng cho bốn năm người sống ấy bằng tôn, vì nó được dán giấy giả gỗ. Phòng ở không có ban công nhưng trổ cửa sổ cho mùa hè, đặt hệ thống nước sưởi cho mùa đông…Nom cũng giông giống một căn phòng bình thường. Châu Âu có tháng băng tuyết rơi ngập đất, sống trong hộp kẽm như thế cũng tạm được, còn hơn bọn Obdachlose(2) phải ngủ trong các thùng giấy, hứng chịu giá buốt tê tái của mùa đông, hoặc trên xe mooc không Toilet, thiếu nước rửa và thảm sực lên độc mùi chó…
Khu trại được Phòng xã hội thành phố trả tiền điện, nước, lò sưởi, vệ sinh, tiền đổ rác, vì thế đời sống đám tị nạn tất nhiên khá hơn số người bản xứ, không công ăn việc làm, sống trong những khu chung cư, cái gì cũng phải móc tiền túi ra trả. Chán vãi là hành lang trải bằng tấm tôn kẽm Container, không rải thảm, động có bước chân người là động vang lên như có ai gõ. Cách đây không lâu, người ta trồng một loạt dây hồng leo bên hàng rào gỗ thông xám đen. Đám hồng được đất, lớn như thổi, quấn dầy trên các thanh gỗ, trổ từng chùm hoa rực rỡ, dần tạo thành “bức tường hồng” chói chang, đập vào mắt người qua lại. Điều này làm thị trấn hài lòng, vì bức rào hoa xoá đi màu hàng rào xám xịt, khu trại Hộp kẽm bớt vẻ u tàn, bí ẩn.

Chiếc Open chở Quyên dừng lại cửa trại Goldberg. Gã thanh niên, đệ tử ruột của Hùng mở cửa giúp Quyên bước xuống xe. Hắn chỉ vào khu nhà sau rặng hồng bảo: “Bà chị vào nhà giữa, có cái cửa sơn xanh kia. Lên cầu thang. Phòng số mười sáu, tầng hai. Chồng bà chị ở đó! Em phải quay về gấp, xem đại ca Hùng tai nạn ra sao.” Trăng treo, sáng lạnh. Đèn đêm hắt xuống đường từng quầng vàng ủng. Sương bắt đầu bảng lảng lan ra như khói mỏng. Các mái nhà hấp hơi ẩm, ánh lên trong ánh trăng. Quyên thấy ớn lạnh. Cô tới bên gã thanh niên, người đã đưa cô tới nơi tới chốn, nói: “Cậu về, phóng chậm thôi!”
Vài giây sau, chiếc Open quay đầu vọt lên đường Autobahn. “Rồi cậu ta sẽ thông tin cho mình tình hình của Hùng”- Quyên nhủ thầm. Cô nhìn theo chiếc xe đang khuất nhanh và hốt nhiên cảm giác cô độc ập đến. Cô rùng mình. Trong đầu cô lóe vụt, hiện cảnh chiếc xe BMV của Hùng, chiếc xe đưa cô vượt biên giới, đánh lạc hướng cho xe cô chạy thoát, lăn lộn trên đường như mảnh sành thia lia trên mặt nước và, đôi chân Hùng dập nát, nhầy nhụa máu. Cái thai bỗng đạp một cú nhẹ làm Quyên bừng tỉnh. Quyên lắc mạnh đầu. Mái tóc cô xổ ra ôm xòa lấy bờ vai, hít một hơi sâu, rồi bước trên đường lát đá nhỏ, men dọc hàng rào, nhằm hướng ngôi nhà có chiếc cửa sơn xanh. “Tầng hai, phòng cuối cùng, bên trái”, cô lẩm nhẩm.

* * *

Kumar là dân Sri Lanka tới trại tị nạn Goldberg đã lâu. Trong trại, Kumar là người duy nhất có thể nói vài thứ tiếng. Tất nhiên, tiếng mẹ đẻ chẳng mấy khi được đụng tới, trừ khi, thi thoảng lắm, có vài người bạn đồng hương của anh từ Hamburg tới thăm. Kumar nói tiếng Đức khá thạo. Anh vừa tới trại, đã xin theo học ngay khóa hai năm tiếng Đức, dành cho người nước ngoài. Kumar đã nắm vững tiếng Anh từ trong nước anh nên học tiếng Đức nhanh.
Nói riêng về tiếng Anh, Kumar nói hay tới mức những người Đức cũng khâm phục. Tay bác sỹ Mueler, phụ trách thăm khám vệ sinh khu trại, kẻ hay la cà tán phét với trại viên, có lần bảo, Kumar, cậu nói tiếng Anh hay hơn cả bà giáo Reny dạy tớ hồi trung học! Điều ấy dễ hiểu, nếu ai quan tâm tới lịch sử Sri Lanka trước kia, hẳn biết mảnh đất ấy lệ thuộc vào Anh bao nhiêu năm trời!
Đến trại Goldberg, anh chung sống với đám người Việt. Thấy Kumar lành, cởi mở, lại bầy tỏ muốn học tiếng Việt Nam, một người nguyên xưa là giáo viên văn đã dạy anh nói tiếng Việt. Kumar lại học tiếng Việt rất nhanh và sau dăm năm ở trại tị nạn, anh có thể hiểu những câu ngạn ngữ, nói được những từ đại loại như hết xảy, hoặc những từ lắt léo, ví như ô kê là con gà đen! Ngoài ra, khi vui, anh còn hát vài bài tiếng Pháp. “Dạo ở Angeri, tôi ở trọ trong một tầng hầm. Có một chiếc máy hát và một đống đĩa hát cũ. Tôi bỏ Angeri, tới Pháp, sang Bỉ, Tây Ban Nha rồi quay laị Pháp và cuối cùng về đây…Tôi làm thợ hồ, thợ xẻ gỗ, lò mổ và cả phát quảng cáo trên đường phố. Nửa năm ở Nam Pháp anh còn nhận chăn súc vật và trồng nho ở một trang trại” Kumar có một lần kể về anh như vậy. Một lần, ở trại có đám giỗ mẹ, của một người Việt, mời Kumar. Không biết làm thế nào mà Kumar cũng biết phong tục Việt, anh tìm tới cửa hàng Châu Á, mua một thẻ hương và hoa quả, lại phong bì 50 D.m. Những người tha hương chả mấy dịp có cớ để uống cho say mà quên đi những lo lắng bồn chồn nơi xứ người. Kumar uống cũng được, nhưng rượu chứ đâu phải nước lã, tới chén tống thứ tư anh cũng lơ mơ. Tới khuya, Kumar ngồi ở góc tường và đột nhiên cất tiếng hát, một bài ca rất buồn. Không ai hiểu bài hát nói gì. Cho tới vài ngày sau, có kẻ gặng hỏi, anh mới kể: “Đây là bài hát của những cánh rừng và thảo nguyên quê tôi.” Rồi anh trầm buồn kể: “Gia đình tôi thuộc dòng họ Sinnatuerrai. Đó là một dòng họ lớn ở Sri Lanka. Nhà tôi có hai ba cánh rừng, có đồng cỏ rộng thả mấy đàn trâu và bò. Dê thì nhiều lắm!” Rồi nội chiến. Cha Kumar bị đạn pháo lạc, chết tươi ngay ở sân nhà. Kumar theo mẹ và chị chạy loạn hết khu trại này tới cánh rừng khác. Họ để mặc gia súc không ai chăn thả. Mẹ không muốn Kumar, đứa con trai duy nhất của dòng tộc Sinnatuerrai chết trong cuộc chiến nồi da xáo thịt, nhân có chuyến mộ thợ hồ sang Angeri, đã chạy vạy, đưa Kumar lên tầu biển. Quàng vào cổ Kumar sợi giây đeo bức tượng Phật bằng đồng đen tuyền, linh cảm sẽ xa con lâu lắm, bà nói: “Cầu Đức Phật phù hộ cho con may mắn!” Bao năm xa quê, qua nhiều nước, biết được đủ mọi hình thái sống, hành trang được thay thế nhiều lần, Kumar cũng nhớ nhớ, quên quên nhiều chuyện, nhưng tượng Phật nhỏ luôn trên cổ anh. Chỉ khi làm ở tiệm Pizza, nơi không khí tràn ngập toàn mùi đồ ăn thức uống, sợ nó ô uế, anh mới tháo tượng Phật ra đặt lên nóc tủ.
Kumar rời nước Pháp chạy sang Đức khi tường Berlin vừa sập. Anh nói, hết hạn hợp đồng thợ nề, lang thang mãi chẳng nơi nào dung thân, nước tớ lại vừa nổ cuộc chiến mới. Té thôi! Kumar nháy mắt rồi cười. Da mặt anh đen sẫm như hòn than nhòa lẫn vào bóng tối, nhưng đôi mắt như luôn ẩn tàng, thoáng hiện thứ ánh sáng mơ hồ, xa xăm và đôi môi hệt có vệt son ánh lên! Nét châu Á trên khuôn mặt anh rất dễ nhận ra, nhưng nước da của anh thì thực châu Phi. Nếu nghe anh nói tiếng Anh, Pháp, mà không nhìn mặt, thì ngỡ Kumar là người Âu. Hàng ngày, dẫu bận tới mấy, anh vẫn dành thời gian sớm hay tối, ngồi yên trước pho tượng nhỏ. Có hỏi, mày cầu xin gì đó? Anh chỉ cười, phô hàm rằng đều trắng xoá. Kumar không xin gì cả! Anh chỉ muốn bình yên, bởi anh tin lời mẹ dặn: “Trước Đức Phật, người ta chỉ có thể tìm sự bình yên!“ Khi có người bạn đồng hương nào đến, anh nấu cơm kiểu như luộc gạo. Gạo chín tới thì cũng cạn nước, anh đổ ngay ra đĩa. Xem họ ăn bốc, hoặc ở bên ngoài phòng, lắng nghe họ nói với nhau, ta thấy một âm thanh bộn rộn chồng chéo, líu ríu như có một đàn chim lao xao trong khu rừng đại ngàn và, hiểu anh đúng là người Sri Lanka.
Rõ ràng, từng ấy cũng chứng tỏ Kumar là tay “giang hồ thứ thiệt”.

Sau mấy lần thẩm vấn, xem xét, Sở ngoại kiều thành phố đã cấp giấy Cư trú vô thời hạn rồi mà anh chưa thuê nhà riêng(3). Không phải Kumar không muốn có một nơi ở tốt hơn. Anh quá ít thời gian để tìm một chỗ ở ưng ý. Kumar đi đưa Pizza từ 9 giờ sáng tới tối mịt. Gần nửa đêm, anh về trại bằng chiếc xe mô tô thùng vuông màu trắng, có dòng quảng cáo da cam: “Pizza tươi!” Như mọi lần, đêm nay về tới trại, anh tắt máy từ xa, cho xe trôi không một tiếng động. Tới sát bờ rào, sau rặng hồng đang còn những đóa hoa cuối vụ, anh khóa xe lại. Ngẩng mặt lên, anh chợt nhìn thấy một người đang loạng choạng như muốn ngã, tay quơ ra bám lấy đám hồng leo trên rào. Kumar bước nhanh tới, nhận ra trong nhập nhoạng, một người đàn bà có cái bụng kềng càng. “Chị làm sao thế?” Kumar hỏi sang bằng tiếng Đức. Người đàn bà giật mình, quay ra nhìn qua rào về phía Kumar.
Bấy giờ trăng soi vằng vặc. Kumar nhìn rõ hơn khuôn mặt người đàn bà trẻ đã ngoảnh sang phía anh. Anh cảm giác, đó là một người Việt. Đúng! Người đấy là Quyên. Đó là em.
Cái thai trước giây phút gặp Kumar vừa đạp một cú khá mạnh, làm cô giật thột, đau quặn muốn gục xuống.
-Sao một người Việt Nam lạ lại tới trại khuya vậy?- Kumar nghĩ và lập tức bật ra một câu tiếng Việt: “Em ơi? Có cần anh giúp đỡ không?”Trong ánh trăng bàng bạc, Quyên thấy một người có làn da như lẫn vào bóng đêm. Kumar khi ấy lại cười. Gã phô hàm răng trắng xoá làm Quyên chờn chợn. Cô lắp bắp: “Tôi đi tìm…” Nói có vậy, Quyên đưa tay ngay lên ngực, như sợ trái tim mình nhảy vọt ra khỏi lồng ngực. Kumar là người thông minh, chợt hiểu, anh nói ngay một hơi: “Xin chị đừng sợ. Chị tìm gì? Tôi tên là Kumar. Kumar ở trại này” Quyên nhìn Kumar. khi đó thấy gã da đen không cười nữa, đôi môi tươi nhấp nháy. Bình tĩnh lại chút ít, Quyên cố can đảm nói: “Tôi tìm anh Dũng. Tôi là vợ…”
Hoá ra cô ấy đi tìm chồng! Kumar chợt nhớ tới ai đó trong trại đã kể về Dũng. Dũng thì Kuamar không lạ. Anh ta ở phòng đối diện với phòng Kumar. Kumar cũng từng nghe người kia kể, Dũng lạc mất vợ khi qua biên giới. Thì ra, đây là người đàn bà mà đôi khi trong các câu chuyện của người Việt bên bếp nấu, nhà giặt được loáng thoáng nhắc tới. Cô ta thực đẹp! Kumar thầm nghĩ. Có những người đàn bà khi có chửa nom dệch dạc, xấu lắm. Lại có những người đàn bà mang thai tới tháng trở dạ mà vẫn đẹp; thậm chí nom càng đàn bà, mỡ màng, hấp dẫn hơn. Khi ấy, anh bỗng nhớ tới khuôn mặt xám nắng, quắt queo của chị anh.
Chiến tranh ở nơi đâu chẳng vậy! Có lần anh chia sẻ với các bạn trại viên Việt Nam.
Những cuộc bắn pháo dữ dội giữa các toán quân đã cắt đứt con đường giao thông. Công việc buôn bán các sản phẩm ở trang trại của cha mẹ anh bị ngừng trệ. Đồng cỏ chẳng còn ai thả trâu và lùa cừu, dê về chuồng khi trời sập tối. Kumar từng nhìn thấy trên một cánh rừng, hơn hai chục người cùng nòi giống băm vằm, nổ súng như điên dại vào nhau, để tất cả cùng chết thê thảm. Ông anh rể trên thị trấn bặt tin sau trận pháo dữ dội của phiến quân, rồi mất tích. Chị anh, nàng Jokabani chưa từng vất vả, nay vác cái bụng chửa bốn, năm tháng đi tìm chồng. Theo đường la và ngựa của những đoàn người buôn lậu len lỏi trong rừng, Jokabani mò mẫm dấu vết chồng mà không thấy, rồi ngã bệnh vì sương gió, chị băng huyết, mất lúc hai tám tuổi.
Người đàn bà này trẻ và đẹp hơn nhiều so với người chị của anh. Cô ta lại may mắn hơn nên đã tìm được trúng nơi ở của chồng. Kumar đi trước, đưa Quyên tới cuối dãy hành lang, dừng lại trước gian phòng có cánh cửa màu trắng. Cửa có cái lỗ kính quan sát như mắt chột. Anh gõ cửa, gọi lớn: “Anh Dũng ơi, có khách này!”