PDA

View Full Version : Tìm hiểu thế giới thi nhân.... (Nguyễn Bính-Thi sĩ giang hồ)



phale
10-06-2009, 01:23 PM
Bùi Giáng

Tiểu sử

Ông sinh tại làng Thanh Châu thuộc xã Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.

Bố của Bùi Giáng là ông Bùi Thuyên, thuộc đời thứ 16 của dòng họ Bùi ở Quảng Nam. Do người vợ cả qua đời sớm nên ông lấy người vợ kế là bà Huỳnh Thị Kiền. Bùi Giáng là con thứ hai của Bùi Thuyên với Huỳnh Thị Kiền nhưng là con thứ 5 nếu tính tất cả các anh em. Khi vào Sài Gòn, ông được gọi theo cách gọi miền Nam là Sáu Giáng.

Bùi Giáng cưới vợ năm 18 tuổi (1944), vợ ông là bà Phạm Thị Ninh nổi tiếng xinh đẹp, nhưng chỉ vài năm sau, bà bị bệnh, sinh non và cả 2 mẹ con cùng chết. Nhiều người cho rằng đây là 1 trong những lý do khiến Bùi Giáng bị điên từ lúc trẻ. Thời gian này ông có đi chăn bò và dê (theo tập thơ Mưa nguồn, bài "Nỗi lòng Tô Vũ" và "Anh lùa bò vào đồi sim trái chín"). Có tài liệu cho rằng ông chỉ đi chăn dê[1].

Ông nổi tiếng bởi tốc độ sáng tác nhanh: tập thơ Mười hai con mắt được ông sáng tác chỉ trong một đêm Noel năm 1992.

Từ năm 1962, Bùi Giáng liên tục cho ra đời nhiều đầu sách. Mỗi năm đều đều vài ba cuốn. Ông là một tác giả có tác phẩm in ra đứng vào hàng kỷ lục ở miền Nam Việt Nam trước 1975. Sách của ông có thể chất thành chồng cao cả mét, thơ thì phải kể bằng đơn vị nghìn bài [2].

Sau năm 1975, ông không bị đi học tập cải tạo như nhiều văn sĩ miền Nam khác vì ông bị mắc bệnh tâm thần.

Từ 1975 trở đi ông vẫn tiếp tục sáng tác rất nhiều thơ, nhưng thời gian này ông có biểu hiện bệnh tâm thần nặng. Ông thường rong chơi nghịch ngợm ngoài đường với bộ đồ rách rưới, dơ dáy, nhiều lần bị công an bắt vì gây rối trật tự, cản trở giao thông.

Tháng 10 năm 1998, trong một lần đi chơi ông bị té làm chấn thương sọ não. Sau khi hỏi ý kiến của nghệ sĩ Kim Cương, bệnh viện chợ Rẫy quyết định mổ cho ông, song ông đã qua đời vào ngày 7 tháng 10, 1998.

Chuyện tình cảm

Bùi Giáng chỉ có 1 vợ là bà Phạm Thị Ninh, một thiếu phụ hồng nhan bạc mệnh đã để lại cho ông nhiều đau khổ. Đó là lý do để trong thơ của ông sau này thường xuyên nhắc đến sự mất mát, sự chia ly, một hình bóng cũ: "Có hàng cây đứng ngóng thu/ Em đi mất hút như mù sa bay; hay những dòng thơ trên bia mộ của Bùi Giáng:

Đùa với gió, rỡn với vân
Một mình nhớ mãi
gái trần gian xa
Sương buổi sớm, nắng chiều tà
Trăm năm hồng lệ có là bao nhiêu

Song ngoài người vợ đầu, Bùi Giáng cũng có những đối tượng khác để yêu, để làm thơ, ngoài mối tình đơn phương nổi tiếng giành cho nghệ sĩ Kim Cương, còn phải kể đến những mối tình vượt không gian với những mỹ nhân Tây Phương như Marilyn Monroe (mà ông gọi là Lyn-rô), Brigitte Bardot, ngoài ra trong thơ ông còn có những hình bóng của ca sĩ Hà Thanh, Thái Thanh, ni cô Trí Hải, ni cô Phùng Khánh (ông gọi là Mẫu thân Phùng Khánh), hay cả những nhân vật tiểu thuyết Marguerite, A Châu, A Tử.

Riêng mối tình đối với Kim Cương được cho là sâu đậm nhất, và đã để lại khá nhiều giai thoại.

Tác phẩm

Thơ

* Mưa nguồn (1962)
* Lá hoa cồn (1963)
* Màu hoa trên ngàn (1963)
* Mười hai con mắt (1964)
* Ngàn thu rớt hột(1967)
* Rong rêu (1972)
* Thơ vô tận vui (1987)
* Mùa màng tháng tư (1987)
* Mùi Hương Xuân Sắc (1987)
* Đêm ngắm trăng (1997)

Dịch thuật

* Trăng châu thổ
* Hoàng Tử Bé
* Khung cửa hẹp
* Hòa âm điền dã
* Ngộ nhận
* Cõi người ta
* Nhà sư vướng luỵ

Nghiên cứu

* Tư tưởng hiện đại (1962)
* Martin Heidgger và tư tưởng hiện đại (1963)
* Đi vào cõi thơ
* Thi ca tư tưởng
* Một vài nhận xét về bà huyện Thanh Quan
* Một vài nhận xét về Lục Vân Tiên, Chinh Phụ Ngâm, quan Âm Thị Kính
* Vài nhận xét về truyện Kiều và truyện Phan Trần
* Sa mạc phát tiết (1965)
* Sa mạc trường ca (1965)
* Bài ca quần đảo (1969)
* Mùa thu trong thi ca
* Ngày tháng ngao du

(Nguồn: http://vi.wikipedia.org)

NHAT NGUYET
11-06-2009, 09:18 PM
Nhà thơ Xuân Diệu và cái bánh bao

Một công ty ăn uống ở Hà Nội mới làm được một loại bánh bao ngon, hy vọng hơn cả bánh của người Hoa ở phố Hàng Buồm. Chủ nhiệm công ty là người mê văn nghệ, mời hơn chục nhà thơ đến thưởng thức.

Ngồi vào bàn, không chờ chủ mời, nhà thơ Xuân Diệu cầm một chiếc bánh bao ăn liền. Còn những người khác thì lịch sự nghe bài diễn văn của chủ nhiệm.

Đọc xong bài diễn văn ông mời các nhà thơ thưởng thức bánh. Nhìn đến cái đĩa trước mặt nhà thơ Xuân Diệu, thấy trống trơn, ông lừ mắt ra hiệu cho cô nhân viên bỏ thêm bánh vào. Nhà thơ Xuân Diệu lại thản nhiên ăn. Vừa ăn, Vĩnh Mai vừa lúi húi viết. Một lúc sau, mọi người chuyền tay nhau một mẩu giấy có bài thơ bốn câu:

Cái bánh bao hời, cái bánh bao
Mùa xuân kỳ diệu, Diệu kỳ sao!
Người ta một chiếc, ông hai chiếc
Thơ nghĩ chưa ra, bánh đã vào!

Xuân Diệu là người đọc bốn câu thơ luân lưu ấy sau cùng, ông gật gù khen hay.

p/s: Bài thơ cũng "thường thường" thôi các bạn nhỉ, thật ra chỉ hay ở ba chữ "Diệu kỳ sao" thôi! Vừa nhấn mạnh sự kỳ diệu, vừa để trách khéo bác (Xuân) Diệu sao lại kỳ cục thế! Thơ kiểu thế này thì anh chị em NR cũng có thể làm được mà, thế nhưng nó cũng được đi vào những giai thoại của làng thơ đấy!

NHAT NGUYET
11-06-2009, 09:53 PM
Nhà thơ Nguyễn Bính: Người cài đặt nhiều "mật mã" trong thơ
(Sưu tầm)

Ở ta, khi viết thơ tình, đa phần các nhà thơ đều không muốn đưa tên thật của "nguyên mẫu" vào trong tác phẩm của mình. Đó có thể do họ ngại... phiền phức, hoặc do thói quen. Riêng Nguyễn Bính thì khác hẳn. Mỗi lúc thầm yêu trộm nhớ một "em" nào, ông đều tìm cách đưa được tên người đó vào thơ.

Tất nhiên, vì là nhiều... "em", nên nhà thơ thường cũng chỉ dám đưa một cách kín đáo, nghĩa là để nó đồng âm đồng nghĩa với một chữ nào đó trong câu thơ, và phải là người "trong cuộc" hoặc thật thân gần mới nhận ra. Bởi vậy, nói Nguyễn Bính là người cài đặt nhiều "mật mã" trong thơ, kể cũng không ngoa.

Theo sách "Giai thoại văn học" (NXB Hà Nội, 2005) thì mùa hè 1941, Nguyễn Bính trên đường vô Nam đã dừng bước tại thị xã Thanh Hóa. Tại đây, trong thời gian ăn nghỉ ở nhà người bạn làm thư ký hỏa xa là Nguyễn Hải Thoại, Nguyễn Bính đã bị hút hồn bởi một giai nhân tên Thuận.

Có không ít đêm, Nguyễn Bính tít mít ở xóm Lò Chum nơi cô Thuận đang sống phận đào nương. Sợ bạn sốt ruột, lo lắng, Nguyễn Bính làm mấy câu thơ nhờ người đưa về cho Hải Thoại: "Thuận lòng đón gió cành đưa/ Hẹn ngày có thấy cho vừa lòng nhau".

Đọc hai câu thơ trên, lại thấy chữ Thuận được viết đậm, Hải Thoại đoán ngay Nguyễn Bính đã phải lòng cô Thuận. Ông tức tốc xuống xóm Lò Chum tìm bạn. Quả nhiên Hải Thoại đã gặp Nguyễn Bính ở đây.

Nữ sĩ Mộng Tuyết, trong hồi ký "Dưới mái trăng non" có nhắc tới chuyện tình của Nguyễn Bính với "một người con gái quê" có tên là Ngọc. Bà kể, một buổi chiều, cô gái này đã trao cho bà một mảnh giấy nhàu nát, nội dung là "xin một cây bút máy tốt và chiếc đồng hồ đeo tay".

Cuối tờ giấy là dòng chữ "Người yêu Ngọc" (mà bà gọi là "Bính ký ẩn danh") và hai câu thơ của Nguyễn Bính:

"Than ôi, không có giá liên thành
Để đổi cho tròn viên ngọc ấy".

Cùng là người làm thơ, chẳng khó khăn gì mà nữ sĩ Mộng Tuyết không nhận ra tâm sự của Nguyễn Bính với người con gái tên Ngọc trong câu thơ có nhắc tới chữ "ngọc" ấy.

Trong bài thơ "Diệu vợi", làm lời kẻ thất tình, Nguyễn Bính đã hốt nhiên thốt lên một cái tên:

"Tôi tưởng rồi tôi quên được người
Nhưng mà nản lắm, Tú Uyên ơi!
Tôi vào sâu quá và xa quá!
Đường lụt sương mờ lụt lá rơi...".

Đọc đến đây, hẳn bạn đọc yêu thơ sẽ nghĩ ngay rằng, Tú Uyên là một cái tên có thật, và người con gái đó hẳn phải có quan hệ sâu nặng mức nào mới khiến thi nhân đủ "can đảm" đưa tên công khai như thế.

Sự thật thì đấy chỉ là một "bí danh" do Nguyễn Bính tách ra từ chữ Tuyên (em gái nhà văn Nguyễn Đình Lạp, tên đầy đủ là Nguyễn Thị Tuyên). Chưa dừng ở đó, trong bài "Người con gái ở lầu hoa", Nguyễn Bính còn "mã hóa" nơi ở của cô gái qua hai câu thơ:

"Nhà nàng bên gốc cây mai trắng
Trên khóm mai vàng dưới đế kinh".

Nguyễn Bính đã giải thích với một người bạn, đại ý, cô gái ở Bạch Mai (bấy giờ được coi là một xóm ngoại ô của Hà Nội), vậy "Nhà nàng bên gốc cây mai trắng" chẳng là Bạch Mai là gì? Còn "Trên khóm mai vàng" thì đúng là Hoàng Mai. "Dưới đế kinh", tức... dưới phố Huế.

Với nữ sĩ Anh Thơ, người từng một thời làm Nguyễn Bính "say như điếu đổ", Nguyễn Bính cũng đã có thơ tặng. Bài thơ viết theo thể lục bát:

Anh đi không hẹn ngày về
Chỉ thề ai buộc, tóc thề ai chôn?
Muốn gì anh muốn gì hơn
Hôn hoàng nay, lại hoàng hôn mai ngày
Môi khô vóc liễu thêm gầy
Anh xa, em kẻ lông mày với ai
Thơ không làm trọn một bài
Đàn không gảy trọn một vài khúc ngâm
Ông tơ già quá nên nhầm
Ai làm sum họp, ai làm chia phôi
Chẳng thà đừng kết duyên đôi
Có cho sum họp để rồi xa nhau
Tính năm tính tháng thêm sầu
Ấy hai con én ngang lầu bay bay...

Trước nhất chắc chắn đây là một bài thơ hay (tặng cho nữ thi sĩ mà lại), có nội dung, có ý tưởng rõ ràng, chứ không chỉ nhằm vào cái mật mã, thế "mật mã" nằm ở đâu? Thú thật khi đọc bài thơ này NN đã không nhận ra tác giả đặt "mật mã" ở chỗ nào...

Mật mã của bài thơ là... ghép tất cả những chữ đầu của 8 câu thơ, ta sẽ đọc ra thông điệp của tác giả "Anh chỉ muốn hôn môi Anh Thơ. Đàn ông ai chẳng có tính ấy". Thật là một cách tỏ tình... táo bạo. Táo bạo nhưng lại được thể hiện một cách khá... kín đáo. Bởi nếu tác giả không chỉ dẫn, hẳn không phải ai cũng nhận ra.

Trong một bài viết có tựa đề "Mảnh vườn ao của nhà ngoại Nguyễn Bính", nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn cho biết: Ở thôn Vân (quê ngoại Nguyễn Bính) có cô Diễm đẹp nổi tiếng một vùng.

Trong thời gian ở đây, Nguyễn Bính thường trò chuyện với cô và giống như cánh trai làng, ông gần như "chết mê chết mệt" trước nhan sắc và sự duyên dáng của Diễm. Và, ông đã bày tỏ tình cảm với cô qua bài thơ "Hoa và rượu" sau khi đã đổi Diễm thành Nhi (?):

"Ngày xưa còn nhỏ Nhi còn đẹp
Huống nữa giờ Nhi đã đến thì
Tháng tháng mươi mười lăm buổi chợ
Cho người thiên hạ phải say Nhi".

Ngoài những trường hợp kể trên, đọc thơ Nguyễn Bính, độc giả thi thoảng lại thấy ông nhắc tới một nhân vật mà ông gọi là "chị Trúc" (các bài "Lỡ bước sang ngang", "Xuân tha hương, "Xuân vẫn tha hương"...).

Vẫn theo thông tin từ nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn thì "chị Trúc" là người đàn bà đẹp nổi tiếng ở thị xã Hà Đông trước đây. Chị họ Lê, tên thật viết tắt là Th, là người yêu của nhà viết kịch Trúc Đường, anh ruột Nguyễn Bính. Với cái lý: Vì là người yêu của anh, nên tên cũng phải được gọi theo tên anh, khi đưa tên chị Th vào thơ mình, Nguyễn Bính đã đổi ra thành chị Trúc.

Được biết, mặc dù là phận em, song trong tình cảm, có lúc Nguyễn Bính tỏ ra rất quyến luyến, mê đắm người phụ nữ này.

Chắc chắn, những ví dụ trên vẫn chưa thể hiện được một cách đầy đủ sự "mã hóa" tên người trong thơ Nguyễn Bính...

(Theo CLB Thơ VN)

Lão K
13-06-2009, 05:00 AM
NGUYÊN SA

Chắc có lẽ trong chúng ta, ai cũng đã ít nhất một lần đọc thơ Nguyên Sa, nghe, hay nghiêu ngao vài câu trong của một bản nhạc phổ từ thơ Nguyên Sa.

Áo Lụa Hà Ðông là một bài thơ nổi tiếng của Nguyên Sa được Ngô Thụy Miên phổ nhạc. Qua bài thơ này, ông đã làm cho cái nắng của Sài Gòn không còn như xưa nữa vì tà áo lụa Hà Ðông ông khoác lên người cô gái. Những câu thơ của ông đã đổi hẳn cái nắng tàn bạo đổ lửa xuống lưng của Sài Gòn thành một thứ nắng lãng mạn với tà áo lụa Hà Ðông bay trong gió. Hơn thế nữa, hình ảnh của "sư tử Hà Đông" đã được thay thế bằng người con gái dịu dàng thơ ngây với hoa cúc vàng, mực tím, lá sân trường.

LK sưu tầm được vài mẫu chuyện về Nguyên Sa và muốn chia sẻ với các bạn một phần nhỏ cuộc đời của người thi sĩ tài hoa này.

Bài viết về Nguyên Sa gồm có bốn phần.

Phần một giới thiệu tiểu sử của ông.
Phần hai ghi lại vài bài thơ nỗi tiếng của ông.
Phần ba là những suy tư của ông trong thời chiến tranh.
Sau cùng, LK đưa bạn đi thắp một nén nhang ở nơi an nghĩ cuối cùng của ông như một lời cảm ơn cho những vần thơ thật lãng mạn đã làm cho cuộc sống của chúng ta đẹp hơn.

Lão K
13-06-2009, 05:08 AM
Phần 1 - Tiểu Sử

Nguyên Sa (sinh ngày 1 tháng 3 năm 1932- mất 1998) tên thật là Trần Bích Lan, còn có bút danh Hư Trúc. Ông là một nhà thơ lãng mạn Việt Nam nổi tiếng từ thập niên 1950, với những tác phẩm nổi danh như "Áo lụa Hà Đông", "Paris có gì lạ không em", "Tuổi mười ba", "Tháng Sáu trời mưa", v.v.

Tổ tiên Nguyên Sa gốc ở Thuận Hóa (Huế), ông cố ông là Thượng thư Trần Trạm, giữ chức Hiệp tá Đại học sĩ trong triều đình thời Tự Đức, đến đời ông nội mới ra Hà Nội.

Sau khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, gia đình ông tản cư đi Hà Đông. Tại đây, ông bị Việt Minh bắt giam khi mới 15 tuổi. Hồi cư về Hà Nội, gia đình cho ông qua Pháp du học vào năm 1949.

Năm 1953, ông đậu tú tái Pháp, lên Paris ghi danh học triết tại Đại học Sorbonne. Nhiều bài thơ nổi tiếng của ông được sáng tác trong thời gian này.

Năm 1955, ông lập gia đình với bà Trịnh Thúy Nga ở Paris. Đầu năm 1956, hai ông bà về nước.

Năm 1975, ông di tản đi Pháp. Ba năm sau, ông và gia đình qua Hoa Kỳ và ở California từ đó cho tới ngày qua đời.

Ông mất ngày 18 tháng 4 năm 1998.


Dạy học
Ở Sài Gòn, Nguyên Sa dạy triết tại trường Trung học Chu Văn An, đồng thời mở lớp tại nhà dạy triết cho học sinh chuẩn bị thi tú tài 2. Ông cũng có thời gian dạy triết tại Đại học Văn khoa Sài Gòn.

Ông mở hai trường tư thục là Văn Học và Văn Khôi.

Ngoài hai trường nhà, ông còn cộng tác với nhiều trường khác ở Sài Gòn như: Văn Lang, Nguyễn Bá Tòng, Hưng Đạo, Thủ Khoa, Thượng Hiền.


Báo chí
Tại Việt Nam, Nguyên Sa chủ trương tạp chí Hiện Đại. Tạp chí này được xem là một trong ba tạp chí sáng tác hàng đầu của Việt Nam, cùng với Sáng Tạo và Thế Kỷ 20.

Qua Hoa Kỳ, Nguyên Sa chủ trương tạp chí Đời, trung tâm băng nhạc Đời và nhà xuất bản Đời.


Phong cách thơ
Về phương pháp làm thơ, Nguyên Sa có thuyết cho rằng vần thơ nếu luôn luôn thật sát thì sẽ nhàm chán. Vần không sát hẳn, thậm chí lạc vận, nếu sử dụng đúng cách, đúng chỗ, vẫn ra một bài thơ hay. Ông nói nhiều về thuyết này trong Nguyên Sa - Hồi Ký. (Trích: "Vần thơ có vần chỉnh, vần thông, vần cưỡng áp và lạc vận. Vần chỉnh không cần sự hỗ trợ, không cần sự phối âm, nhưng sự sử dụng những nền âm thanh khác biệt có khả năng làm cho vần thông trở thành vần chỉnh, vần cưỡng và ngày cả vần lạc cũng được nắm tay giữ được trong khoảng không gian giữa trời, giữa đất mênh mông.")

Thơ Nguyên Sa có một số bài được biết đến nhiều hơn qua những bài hát do nhạc sĩ Ngô Thụy Miên phổ nhạc: Áo lụa Hà Đông, Tuổi mười ba, Paris có gì lạ không em, Tháng sáu trời mưa.

Thơ
Thơ Nguyên Sa tập 1
Thơ Nguyên Sa tập 2
Thơ Nguyên Sa tập 3
Thơ Nguyên Sa tập 4
Thơ Nguyên Sa toàn tập

Truyện dài
Giấc mơ 1
Giấc mơ 2
Giấc mơ 3
Vài ngày làm việc ở Chung Sự Vụ

Truyện ngắn
Gõ đầu trẻ
Mây bay đi

Biên khảo triết học và văn học
Descartes nhìn từ phương Đông
Một mình một ngựa
Một bông hồng cho văn nghệ

Bút ký
Đông du ký

Hồi ký
Nguyên Sa - Hồi ký
Cuộc hành trình tên là lục bát

Sách giáo khoa
Luận lý học
Tâm lý học

Lão K
13-06-2009, 06:19 AM
Phần 2
Những bài thơ nổi tiếng của Nguyên Sa


Ít người biết những bài thơ nổi tiếng của Nguyên sa như Tiễn biệt, Paris có gì lạ không em, Tuổi Mười Ba, của Áo Lụa Hà Ðông, Tháng Sáu Trời Mưa, Cần Thiết , .. ông viết lúc đi "cua" Nga, sau này là người bạn đời yêu dấu của ông.

Ông đã viết về những ngày du học ở Pháp, về quê hương, về tình yêu, và kết thúc bằng lễ cưới của mình như sau:

“...Tôi không muốn đi, tôi muốn ở lại, tôi gọi trở về quê hương là đi, tôi gọi tới Paris là về. Tình yêu của tôi ở đó, phần đời có trọng lượng của toàn thể của tôi ở đó. Cảm xúc lớn lao, giao động cực mạnh mang lại hàng loạt những bài thơ về biệt ly. Paris có gì lạ không em, Tiễn biệt, Paris. Tôi khởi sự thơ với chủ đề ly biệt. Tôi bắt đầu cùng lúc những bài tình ái và những bài biệt ly. Cũng có thể nói được như thế. Thơ chủ đề biệt ly và thơ chủ đề tình yêu đến gần như trong cùng một thời gian. Xen kẽ. Hỗ trợ. Trong thơ tình có khắc khoải chia xa. Trong Tiễn biệt, Paris có gì lạ không em, Paris có gục đầu trên vai nhau. Nga đầy ắp Paris là bài thơ tình đầu tiên, sau đó là Tuổi Mười Ba, của thời kỳ Paris gục đầu trên vai nhau. Paris tiễn nhau ở gare De Lyon, ở phi trường Orly, Áo Lụa Hà Ðông, Tháng Sáu Trời Mưa, Cần Thiết của Sài Gòn 1956 và những năm kế tiếp, Nga 1955, Tiễn biệt đầu tiên. 1953, hai bài Paris 54 và 55. Thơ tình của những ngày tháng hôn nhân đến trước thơ tình của tuổi học trò. Áo Lụa Hà Ðông, Tuổi Mười Ba, Tháng Sáu Trời Mưa trình làng ở Sáng Tạo, khi đã trở về Việt Nam, làm khoảng thời gian 56-57. Nga in trên tờ thiệp báo hỷ, bài thơ tương đối dài làm cho người bạn ấn loát in tặng phải chọn lựa tờ giấy lớn hơn thiệp báo hỷ rồi gấp lại làm ba. Tờ thiệp báo hỷ của tôi in trên khổ giấy năm rưỡi tám rưỡi, giấy bảy chục gam, loại láng, in chữ nghiêng, tới chữ O của ‘môi em tròn như chữ O’ câu thơ in nghiêng, anh bạn ấn công chỉ cho tôi thấy chữ O anh đã chọn kiệu chữ thẳng, rất tượng hình thơ...”

Lão K
13-06-2009, 06:24 AM
Áo Lụa Hà đông


http://i216.photobucket.com/albums/cc126/kecuongsi/4-1.jpg
Photo by TMV


Nắng Sài gòn anh đi mà chợt mát
bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng

anh vẫn nhớ em ngồi đây tóc ngắn
mà mua thu dài lắm ở chung quanh
linh hồn anh vội vã vẽ chân dung
bay vội vã vào trong hồn mở cửa

gặp một bữa, anh đã mừng một bữa
gặp hai hôm thành nhị hỹ của tâm hồn
thơ học trò anh chất lại thành non
và đôi mắt ngất ngây thành chất rượu

em không nói đã nghe từng gia điệu
em chưa nhìn mà đã rộng trời xanh
anh trông lên bằng đôi mắt chung tình
với tay trắng, em vào thơ diễm tuyệt

em chợt đến, chợt đi, anh vẫn biết
trời chợt mưa, chợt nắng, chẳng vì đâu
nhưng sao đi mà không bảo gì nhau
để anh gọi, tiếng thơ buồn vọng lại

để anh giận, mắt anh nhìn vụng dại
giận thơ anh đã nói chẳng nên lời
em đi rồi, sám hối chạy trên môi
những tháng ngày trên vai buồn bỗng nặng

em ở đâu, hỡi mùa thu tóc ngắn
giữ hộ anh màu áo lụa Hà Đông
anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
giữ hộ anh bài thơ tình lụa trắng
Nguyên Sa

Lão K
13-06-2009, 06:33 AM
PARIS CÓ GÌ LẠ KHÔNG EM?



[http://i216.photobucket.com/albums/cc126/kecuongsi/HOA.jpg
Photo by TMV


Paris có gì lạ không em?
Mai anh về em có còn ngoan
Mùa xuân hoa lá vương đầy ngõ
Em có tìm anh trong cánh chim

Paris có gì lạ không em?
Mai anh về giữa bến sông Seine
Anh về giữa một giòng sông trắng
Là áo sương mù hay áo em?

Em có đứng ở bên bờ sông?
Làm ơn che khuất nửa vừng trăng
Anh về có nương theo giòng nước
Anh sẽ tìm em trong bóng trăng

Anh sẽ thở trong hơi sương khuya
Mỗi lần tan một chút sương sa
Bao giờ sáng một trời sao sáng
Là mắt em nhìn trong gió đưa...

Anh sẽ cầm lấy đôi bàn tay
Tóc em anh sẽ gọi là mây
Ngày sau hai đứa mình xa cách
Anh vẫn được nhìn mây trắng bay

Anh sẽ chép thơ trên thời gian
Lời thơ toàn những chuyện hờn ghen
Vì em hay một vừng trăng sáng
Ðã đắm trong lòng cặp mắt em?

Anh sẽ đàn những phím tơ trùng
Anh đàn mà chả có thanh âm
Chỉ nghe gió thoảng niềm thương nhớ
Ðể lúc xa vời đỡ nhớ nhung

Paris có gì lạ không em?
Mai anh về mắt vẫn lánh đen
Vẫn hỏi lòng mình là hương cốm
Chả biết tay ai làm lá sen?...
Nguyên Sa

Lão K
13-06-2009, 06:44 AM
NGA

http://i216.photobucket.com/albums/cc126/kecuongsi/tranhDinhCuong_conho.jpg
Painted by Đinh Cường


Hôm nay Nga buồn như một con chó ốm
Như con mèo ngái ngủ trên tay anh
Ðôi mắt cá ươn như sắp sửa se mình
Ðể anh giận sao chả là nước biển...

Tại sao Nga ơi, tại sao...
Ðôi mắt em nghẹn như sát từng lần vỏ hến
Hơi thở trùng như sợi chỉ không căng
Bước chân không đều như chiếc thưóc kẻ ai làm cong
Ai dám đển ở ngoài mưa, ngoài nắng!

Nói cho anh đi, Nga ơi...
(em làm ơn chóng chóng)
Lại bên anh đi - bằng một lối rõ thật gần
Bằng một lối gần hơn con đường cong
Bằng một lối gần hơn con đường thẳng
Bằng đôi má hồng non, bằng mắt nhìn trinh trắng
Bằng những lời yêu mến tan trên đôi môi...

Và cười đi em ơi,
Cười như sáng hôm qua.
Như sáng hôm kia...
Cười đi em
Cười như những chiều đi học về
Em đố anh Paris có bao nhiêu đèn xanh đèn đỏ
Và anh đố em: Em có nhớ
Mỗi ngày bao nhiêu lần anh hôn em ?...

Cười đi em
Cười rõ thật nhiều đi em...
Rồi đố anh
Cho anh không kịp đếm
Cho anh tan trong niềm vui
Cho bao nhiêu ngọn đèn xanh, đèn đỏ thi nhau cười
Vì hai bàn tay chúng mình sát lại
(tay anh và tay em)
Nhớ hai giãu phố chạm vào nhau
Hai giãy phố chúng mình vẫn đi về
Em nhớ không ?...

Em nhớ không, đã có lần anh van em
Ðã có một lần lâu hơn cả ngày xưa
Em sợ thời gian buồn nhu mọt nhấm từng câu thơ
Em sợ thời gian ác như lửa thiêu từng thanh củi
Mắt e ngại như từng con chỉ rối
Em sợ những ngày trời nắng như hôm nay
Em sợ những đường tàu vướng víu như chỉ tay
Không dám chọn lấy một ga hò hẹn
Em nhớ không , anh đã van em
(và em còn van em như ngày xưa...)
Em đừng buồn như những chiếc lá tre khô
Em đừng buồn như những nóc nhà thờ không có tuổi
Anh van em đừng nhìn anh và đừng cười gượng gạo
Em đừng cười như ngọn bấc gần hao
Những nụ cười vướng trên đôi gò má xanh xao
Những nụ cười vướng trên mắt nhìn trắng đục
Ðừng để anh nhìn em rồi nghẹn ngào chớp mắt
Như hai vì sao le lói trong đêm sương mù
Ðừng để thời gian dầy như trăm vạn lớp chấn song thưa
Về xen giữa hai bàn tay sầu tủi!...

Em nhớ không , anh đã van em đừng buồn
Anh đã van em đừng để những nụ cười chắp nối
Mắt anh sẽ mờ vì những vết kim khâu
Và anh buồn, rồi lấy ai mà dỗ nhau
Lấy ai mà dỗ hai con chó ốm! ...

Em nhớ không cả một hôm trời mưa
Một hôm trời mưa tấm tức
Một hôm trời mưa không ướt cánh chuồn chuồn
Những hạt mưa không đan thành mắt áo len
Những hạt mưa không làm phai màu nước mắt
Em đã khóc, anh đã khóc và chúng mình đã khóc
Bước chân lê trên những hè phố không quen
Chúng mình đã khóc vì không được gần nhau như hai con chim
Chúng mình đã khóc vì không có tiền làm lễ cưóoi , lễ xin
Và em nhơ không , chúng mình đã hỏi nhau:
Tại sao phải làm lễ tơ hồng
Tại sao phaỉ nhờ người ta buộc chỉ vào chân
Khi tay em đã vòng ra đằng sau lưng anh
Khi tay anh đã vòng ra đằng sau lưng em
Người ta làm thế nào cắt được
Bốn bàn tay chim khuyên!...

Người ta làm thế nào cấm được chúng mình yêu nhau

Nếu anh không có tiền mua nhẫn đeo tay
Anh sẽ hôn đền em
Và anh bảo em soi gương
Nhìn vết môi anh trên má
Môi anh tròn lắm cơ
Tròn hơn cả chữ O
Tròn hơn cả chiếc nhẫn
Tròn hơn cả hai chiếc nhẫn đeo tay !...

Chúng mình lấy nhau
Cần gì phải ai hỏi
Cả anh cũngkh cần phải hỏi anh
"Có bằng lòng lấy em?..."
Vì anh đã trả lời anh
Cũng như em trả lời em
Và cũng nghẹn ngào nước mắt !...

Và em sẽ cười phải không em
Em sẽ không buồn như một con chó ốm
Như con mèo ngái ngủ trên tay anh
Ðôi mắt cá ươn như sắp sửa se mình
Ðể anh giận sao chả là nước biển!...

Em sẽ cười phải không em
Vì không ai cấm được chúng mình yêu nhau!...
Không ai cấm được anh làm những câu thơ anh thích
Không ai cấm được anh làm cả bài thơ
Với một chữ N
Với một chữ G
Và với một chữ A
Người ta có thể đọc một câu, hai câu, hay cả ba
Người ta có thể không thích
(thì người ta không thích một mình)
Nhưng người ta không cấm được anh yêu bài thơ của anh
Nguyên Sa

Nguyên Sa uống thuốc liều nên mới dám gọi vợ mình là "con chó ốm" :botay:

Lão K
13-06-2009, 07:15 AM
Phần 3
Nguyên Sa và chiến tranh


Nguyên Sa còn làm thơ về những ngày ở lính và chiến tranh ở đây đã được nhìn ngắm với con mắt của người trong cuộc. Một cuộc chơi tàn bạo được bày ra với tất cả những sự phi lý của nó. Những người tham dự, dù tình nguyện hay bắt buộc, cũng bị lôi đi trong con lốc mịt mờ của thời thế.

Có một thời gian trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa, ông làm việc trong "Chung Sự Vụ". Đây là một đơn vị tiếp nhận thi hài của những người lính chết trận, lo việc hậu sự và giao lại cho gia đình mai táng. Có lẽ đây là chuỗi ngày đau khổ nhất khi ông phải chứng kiến sự tột cùng đau khổ của những người bất hạnh khi người thân nằm xuống trong một cuộc chiến phi lý, huynh đệ tương tàn.

Trong khoảng thời gian này, ông làm bài thơ "Sân Bắn" và ông đã viết về bài thơ này như sau

“Khi Sân Bắn, thơ, đến với tôi, bia cũng tới, đầu tiên, không có chân tay, cảm xúc của thơ mang cho Sân Bắn thơ thêm hình ảnh của ta, của địch, thân phận con người, sự vong thân của bản ngã...

“Bầu trời của Sân bắn có bia lên, có thân người, có ta, có địch, có tay chân thừa thãi, có tác dụng của xạ trường đến nơi thính giác và cả trí tuệ. Óc tai, hình nhân, giấy bồi, hầm bia, đạn đầu lửa bay trong những buổi thực tập tác xạ ban đêm. Tôi biết kỹ thuật thi nhân từ trước khi thực hiện Sân Bắn, từ lâu. Cũng như nhiều người làm thơ, tôi có một thời kỳ lục bát buổi đầu đời. Thi nhân vừa dẫn bài thơ vô, vừa dẫn từ câu này qua câu kia từ đoạn này sang đoạn khác. Luận lý của suy luận là do đó, là cho nên, là vậy thì. Có thể là tất cả những từ đó và những từ tương tự khác cùng loại.

Tất cả mọi người đều phải chết

Socrate là người

Socrate phải chết

Chân lý của kết luận chứa ẩn trong những đại tiền đề. Chân lý của tiền đề, bằng những do đó, là vậy thì, là cho nên, đi tới kết luận. Nói rõ ra cũng tốt, không nói tới cũng tốt. Từ ngữ hiện hay ẩn đưa tới kết luận là đưa tới chân lý tất yếu đã nằm trong những tiền đề. Thi nhân của thơ đưa tới những kết luận khác biệt, không tiên liệu trước được, nhảy qua trùng điệp những đồi núi, những bình nguyên rơi xuống một miền đất của riêng. Bia lên mở ra thân người, mở ra thế giới mà khoảng cách giữa ta và địch bị tiêu hủy bởi cái chết, mở ra sự thừa thãi của tay chân, sự bất lực của giác quan và trí tuệ. Trong Sân Bắn, thi nhân hơn một nửa làm nhiệm vụ của liên tự, nó cho phép nói nhiều với ít chữ hơn.

Bầu trời của thơ không phải là bầu trời của sân bắn xạ trường. Bầu trời Sân Bắn thơ có những đám mây của nó, có vài phần vật liệu từ hơi nước bay lên, nhưng lại có nhiều phần mây có màu sắc bay tới từ thế giới nội tâm, có những đám mây màu sắc tình cảm, đám mây màu sắc suy tư, đám mây màu ngậm ngùi thân phận.

Chủ nghĩa tả chân và những anh em của nó, như tả chân xã hội, khó lòng mang lại bầu trời thơ, vì không gian của nó hạn hẹp, chỉ có mây của nước bốc hơi, không có chỗ nào cho những đám mây tuyệt vời kia.”


Không chữ nghĩa nào có thể diễn đạt được sự thê lương của mạng sống con người trong chiến tranh như câu cuối của bài thơ "Nghìn cây nến thắp trên đầu đạn bay"

Lão K
13-06-2009, 07:19 AM
Sân Bắn


http://i216.photobucket.com/albums/cc126/kecuongsi/nguyensa_tb.jpg

Bia lên ta thấy thân người
Thấy ta thấy địch, thấy đời lãng du
Thấy tay dư, thấy chân thừa
Thấy tai nghễnh ngãng, mắt mù óc không..
Một đời phơ phất hình nhân
Thấy còn thấy hết, sau cùng thấy đau
Bia lên thấy mẹ u sầu
Giấy bồi tơi tả cúi đầu trong ta
Trời cao ngó xuống thịt da
Bia lên trông cũng vật vờ cỏ xanh
Bia lên tìm chỗ ta nằm
Non cao duỗi cẳng em còn thấy đâu
Hầm bia buồn đến mộ sâu
Nghìn cây nến thắp trên đầu đạn bay.
Nguyên Sa

Lão K
13-06-2009, 07:34 AM
Phần cuối
Nơi an nghĩ cuối cùng của Nguyên Sa


Nguyễn Mạnh Trinh, nhà văn và cũng là thi sĩ nổi tiếng ở hải ngoại, đã viết về nơi an nghĩ cuối cùng của thầy mình trong một đoản văn như sau

Ngày cuối tuần, là ngày Thanh minh. Nhớ lại câu Kiều “Thanh minh trong tiết tháng ba. Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh..” để nhớ bổn phận của một người con, của một người cầm bút nhớ lại những người đã ra đi. Nghĩa trang Peek Family ở cuối đường Bolsa, nơi an nghỉ của mẹ tôi, của thầy Nguyên Sa, thầy Nguyễn Khắc Hoạch, thầy Vũ Văn Tiên, anh Mai Thảo, anh Long Ân, Nguyễn Tất Nhiên, và người anh vợ tôi vừa ra đi cách nay vài ngày, ở những ngôi mộ mà ngày hôm nay tôi đến cắm những nén nhang tưởng nhớ. Con đường Bolsa, con đường đặc biệt của người tị nạn Việt Nam, nơi mở đầu một cuộc sống với phố xá ồn ào, cửa hàng tấp nập và chấm dứt đời tị nạn với những ngôi mộ thinh lặng chỉ có cây cỏ và những chú chim dạn dĩ. Trời hôm nay nắng đẹp trải màu đỏ hồng trong những thảm cỏ xanh rờn. Cuối Mùa Xuân đầu Mùa Hè, tầng mây cao vút, thấy trời và đất thật gần nhau và người chết và người sống dường như có những rung động sâu xa từ tâm thức. Ðến từng ngôi mộ, nhìn lại di ảnh những người đã khuất, tự nhiên tôi thấy lòng bồi hồi. Chỉ mấy năm qua thôi, mà trải qua tưởng như lâu lắm. Những câu thơ trên bia mộ thi sĩ Nguyên Sa, Mai Thảo, Long Ân, Nguyễn Tất Nhiên, hay những câu đối trên bia mộ giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch, Vũ Văn Tiên, như những nhắc nhở để nhớ về, để tưởng vọng.

Tôi nhìn di ảnh thầy Nguyên Sa, thấy cái nón kết quen thuộc, thấy nụ cười hiền hòa bao dung khi bị lũ học trò cũ chúng tôi chọc phá. Mới đây mà đã mười năm.

Trong những năm cuối của cuộc đời, Nguyên Sa có cái nhìn về tình yêu như sau:

“Ðề tài tình yêu thường thay đổi theo thời gian... trước năm 1963, tình yêu đó thuần túy những cảm xúc, những đam mê. Ðó là niềm đam mê, lúc tin tưởng mạnh mẽ, lúc rụt rè thắc mắc, lúc muốn ngỏ lời, lúc không dám ngỏ. Nhưng về sau lúc người ta 50, 60 tuổi, đam mê tình ái không còn nữa, như xao xuyến về một vạt áo trong sân trường, như bồi hồi vì một mái tóc xõa ngang vai, không có nữa. Thời gian xóa bỏ nhiều thứ. Tình yêu có bóng dáng của sự buồn phiền xót xa vì thời gian trôi qua. Và ngậm ngùi nhận ra rằng việc chấm dứt cho tất cả mọi sự sẽ phải tới. Khi nào suy nghĩ ấy xen lẫn trong đời sống trong tình yêu trong thơ, tất cả sẽ chán chường. Võ sĩ lên đài mà không nghĩ đến chiến thắng đến tiền thưởng mà chỉ nghĩ đến cái chết gần tới thì chắc chắn quả đấm của võ sĩ ấy phải khác với một võ sĩ chỉ nghĩ đến cách thế để cho đối thủ quỵ ngã. Ðối với tôi tâm sự về tình yêu lúc 50 tuổi trở lên như võ sĩ lên đài thay vì chiến đấu mãnh liệt say mê thì lại đưa quả đấm giơ lên rồi bỏ xuống. Tư tưởng cái chết ám ảnh mạnh mẽ tình yêu...”

Lão K
13-06-2009, 07:41 AM
Nguyên Sa ở Peek Family Memorial Park


http://i216.photobucket.com/albums/cc126/kecuongsi/92903-medium_NVV_2.jpg

http://i216.photobucket.com/albums/cc126/kecuongsi/DSC06674.jpg

http://i216.photobucket.com/albums/cc126/kecuongsi/DSC06676.jpg


Nằm chơi ở góc rừng này
Chưa thiên thu cũng đã đầy cỏ hoang
Xin em một sợi tóc vàng
Làm hoa khởi sự cho ngàn kiếp sau
Biết đâu thảo mộc bớt đau?
Biết đâu có bản kinh cầu dâng lên?
Nguyên Sa

Lão K
13-06-2009, 07:50 AM
Nguyên Sa và Tình Ca Ngô Thụy Miên


Tin nhà thơ Nguyên Sa mất đến với tôi thật đột ngột! Sáng nay một người bạn gọi vào sở hỏi tôi:"Ông có biết nhà thơ Nguyên Sa vừa qua đời chưa?" Tôi bàng hoàng, thẩn thờ một chút mặc dù đã được biết tình trạng sức khoẻ của ông mấy năm gần đây. Chúng tôi trao đổi vài ba câu chuyện. Tôi cám ơn bạn rồi thầm nói với mình: "Thôi, cái thời tuổi trẻ mộng mơ, yêu đương nồng nàn ngày nào đã thực sự không còn nữa. Không còn nữa những lụa là mưa nắng Sàigòn, cũng không còn nữa Paris, người tình và giòng sông Seine với những vòng tay ôm, những môi hôn vội vả… Người đạo diễn đã bỏ cuộc chơi, bọn tài tử chúng tôi ở lại còn gì để bàn chuyện thu phong, còn gì để làm dáng với đời, làm điệu với người!"...

Ngoài trời những giọt mưa vẫn tiếp tục rơi đều trên khung cửa kính. Buổi chiều về nhà, bạn bè dưới Cali gọi lên báo tin. Bỏ điện thoại xuống, tôi ra vườn sau nhà. Nhìn những cánh hoa anh đào đang rụng bay theo gió, chợt thấy lạnh, và nỗi buồn ập đến khiến tôi choáng váng. Buổi tối anh Nguyễn Mạnh Trinh gọi lên nhờ tôi đóng góp một bài để đăng trong tuyển tập anh dự định in trong những ngày sắp tới. Tôi hứa sẽ viết một chút về những bản nhạc đã phổ từ thơ ông.

Tôi không rõ nhà thơ Nguyên Sa từ Pháp trở về Việt Nam từ năm nào, chỉ biết cùng với nhà thơ Cung Trầm Tưởng, ông đã đem Paris về cho bọn trẻ chúng tôi. Một Paris với hè phố Saint Michel, với sông Seine, tháp Eiffel, những cặp tình nhân, giáo đường sương mù… Cùng một lúc ông đã mang nắng Sàigòn, lụa Hà Ðông và đâu đó bóng dáng Hà Nội vào thi ca Việt Nam của chúng ta một cách thân thiết nhẹ nhàng. Nhiều người hỏi tôi có quen biết hay có họ hàng với nhà thơ? Như tôi đã nói, chúng tôi không có liên hệ gì ngoài sự cảm thông của hai con người cùng yêu nghệ thuật. Nói rõ hơn, tôi chỉ là một trong hàng triệu người yêu quí thơ ông, một người may mắn có thể gửi lời biết ơn giòng thơ tuyệt vời của ông qua những nốt nhạc giản dị, chân tình.

Cuối năm 1969, khi một số tình khúc của tôi đã được phổ biến rộng rãi trên các đài phát thanh, cũng như trong những đêm sinh hoạt văn nghệ được tổ chức tại nhiều trung tâm văn hoá, hay các giảng đường đại học. Tôi đến với thơ Nguyên Sa, không từ một chọn lựa, mà vì tôi đã nhìn thấy mình trong thơ của ông, đã nghe những rung động thầm kín nhất của tuổi trẻ mình được ông tạo lên bằng những lời thơ ngọt ngào tình tứ, tươi mát. Cũng như bao nhiêu anh em thanh niên sinh viên học sinh của thập niên 60, tôi yêu và thuộc không ít thơ của ông. Nói đến Áo Lụa Hà Ðông, có lẽ chúng ta mấy ai không biết:

Nắng Sàigòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Ðông.

Cá nhân tôi khi đọc bài thơ đã chú ý ngay 4 câu:

Em chợït đến, chợt đi anh vẫn biết
Trời chợt mưa, chợt nắng chẳng vì đâu
Nhưng sao đi mà không bảo gì nhau
Ðể anh gọi, tiếng thơ buồn vọng lại.

Lời thơ man mác buồn, đã vỗ về, chia xẻ tâm tư tôi ngày tháng đó. Lang thang Sàigòn một ngày nắng nhẹ, giòng nhạc lan man trong đầu óc: "Rê Ðô Rê, Sol Sib Sib Rê Rê, Sol Sol La, Sol Sib Rê Rê La…", tôi đã hoàn tất phần điệp khúc được viết theo cung Rê thứ để thích hợp với hồn thơ. Khi phổ hai phần đầu, và cuối, tôi đã gặp khó khăn với hai câu:

Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng

Giữ hộ anh bài thơ tình lụa trắng

vì vần trắc của chữ "trắng" đã không thích hợp với giòng nhạc chuyển tiếp cần âm bằng. Sau hơn một tuần loay hoay tìm kiếm, cuối cùng tôi đã phải dùng một phương pháp phổ thơ cũ: nhắc lại lời thơ ở câu trên để chuyển ý nhạc trở về phần hai, cũng như đoạn cuối của bản nhạc:

Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng.
Anh vẫn nhớ em ngồi đây, tóc ngắn

Ðể tạo ấn tượng nuối tiếc cho người nghe, khi kết thúc bản nhạc, tôi đã thêm câu:

Anh vẫn yêu màu áo ấy, em ơi

với giòng nhạc đi lên, chuyển từ Sol thứ qua Sib, La, và chấm dứt bằng Rê trưởng.

Cuối năm 1970, trong một đêm nhạc tình ca tại trường đại học Khoa Học, tôi đã giới thiệu bài hát tới các bạn trẻ của tôi. Sau đó bản nhạc đã được phổ biến thường xuyên qua các chương trình nhạc do tôi và nhạc sĩ Trường Sa thực hiện trên đài phát thanh Quân Ðội, cũng như trong các đêm nhạc do bạn bè chúng tôi tổ chức tại Sàigòn. Ngoài ra trong năm 1970, tôi cũng đã viết "Tình Khúc Tháng Sáu" phổ theo ý thơ bài Tháng Sáu Trời Mưa của Nguyên Sa. Mãi đến năm 1984 tôi mới phổ bài "Tháng Sáu Trời Mưa" của ông.

Những năm 60, 70, bọn trẻ chúng tôi dù trưởng thành trong khói lửa chiến tranh, có ai không mơ một ngày được đặt chân đến Paris, được cùng người yêu dạo chơi phố phường Paris, hay lang thang bên bờ sông Seine nhớ đến một cuộc tình… Paris như một lời kêu gọi, một nơi chốn tìm về cõi tình yêu. Từ những mộng ước đó, bản nhạc thứ hai tôi phổ từ thơ Nguyên Sa đã thành hình. Có những bài thơ khi muốn phổ nhạc, người nhạc sĩ phải tìm điệu nhạc để chuyên chở ý thơ, hoặc phải thay đổi lời thơ để nhập vào ý nhạc… Riêng "Paris Có Gì Lạ Không Em" khi đọc lên tôi đã nghe phảng phất tiếng phong cầm rộn rã của nhịp 3 luân vũ. Trên phím dương cầm, giòng nhạc dồn dập, chạy dài trên 10 đầu ngón tay, tôi đã hoàn tất phổ bài thơ trong một ngày đầu xuân năm 1971.

Cung Ðô trưởng mở đầu nhịp nhàng:

Paris có gì lạ không em
Mai anh về, em có còn ngoan...

tôi thích nhất câu:

Là áo sương mù hay áo em

từ cung Ðô trưởng đổi chuyển qua La thứ để vào phần điệp khúc:

Anh sẽ cầm lấy đôi bàn tay
Tóc em anh sẽ gọi là mây...

Khi Hoàng Phúc bạn tôi hát bài này lần đầu tiên, đã nói "bài này phải để chị Thái Thanh hát mới được". Ðúng như lời Phúc nói, sau này chị Thái Thanh đã thu bài này. Ðể thêm một chút Paris, chị đã hát:

La la la la la la
La la la la la la

khi kết thúc bản nhạc.

Sau Áo Lụa Hà Ðông và Paris Có Gì Lạ Không Em, tôi đã phổ tiếp Tuổi 13. Cũng như "Nắng Sàigòn anh đi mà chợt mát. Bởi vì em mặc áo lụa Hà Ðông", "Áo nàng vàng tôi về yêu hoa cúc, Áo nàng xanh tôi mến lá sân trường" là 2 câu thơ được bọn trẻ chúng tôi thuộc nằm lòng ngày đó. Tôi yêu cái ý thơ hồn nhiên, lời thơ trong sáng. Ðọc bài thơ thấy hồn lâng lâng, như đang nhớ nhung, hẹn hò, đang đợi chờ, mơ ước. Ý nhạc đến thật nhanh:

Trời hôm nay mưa nhiều hay rất nắng
Mưa tôi trả về bong bóng vỡ đầy tay...

Tôi đã vào đề với những nốt nhạc cao của cung Ðô trưởng để diễn tả cái thắc mắc ngày mưa ngày nắng của mình. Khi chuyển qua điệp khúc tôi nhắc lại câu "Tôi phải van lơn ngoan nhé đừng ngờ…" 2 lần như một lời trấn an người tình nhỏ và kết thúc tôi nhắc lại câu "Nên đến trăm lần, nhất định mình chưa yêu" như một câu hỏi cho chính lòng mình. Tôi vẫn nghĩ bản nhạc với những niêm luật gò bó đã không thể nói lên hết được ý thơ của tác giả. Chỉ hy vọng bản nhạc đã không làm giảm giá trị của bài thơ.

Ðầu năm 1974, khi quyết định cùng một nhóm bạn thực hiện cuốn băng Tình ca Ngô Thụy Miên, tôi đã đến gặp nhà thơ để xin phép thu 3 bản nhạc. Lần đầu tiên nói chuyện để lại ít nhiều kỷ niệm. Nhà thơ rất giản dị, dáng dấp xuề xoà. Ông rất vui khi biết tôi phổ thơ ông, và hỏi tôi sẽ nhờ ai hát ? Tôi nói nhạc sĩ Văn Phụng viết hoà âm, ca sĩ Duy Trác hát Áo Lụa Hà Ðông, Thái Thanh hát 2 bài Paris Có Gì Lạ Không Em, Tuổi 13. Và từ đó, Áo Lụa Hà Ðông, Paris Có Gì Lạ Không Em , Tuổi 13, đã trở thành một phần đời nhạc Ngô Thụy Miên.

Năm 1980 khi tôi đặt chân đến Cali, người đầu tiên tôi liên lạc để hỏi thăm tin tức sinh hoạt văn nghệ của cộng đồng chúng ta ở hải ngoại là nhà thơ Nguyên Sa. Ông có cho tôi biết về sự ưu ái của thính giả dành cho bài Áo Lụa Hà Ðông, cũng như cuốn băng Tình ca Ngô Thụy Miên. Năm sau đó tôi đã rời Cali để lên miền Tây Bắc. Ông vẫn thỉnh thoảng liên lạc bằng điện thoại với tôi, và gửi lên tôi những bài thơ mới viết về sau.

Trong những tháng ngày đầu ở Cali, mặc dù bận rộn với đời sống mới, tôi vẫn tiếp tục sáng tác. Cùng với Em Còn Nhớ Mùa Xuân, Bản Tình Ca Cho Em, Dốc Mơ… Tôi đã phổ bài thơ "Paris" của Nguyên Sa: Mai tôi đi chắc Paris sẽ buồn, Paris sẽ nhìn theo... với tôi Paris lúc đó chính là Sàigòn, Sàigòn của những nỗi nhớ muộn màng, Sàigòn của những mất mát khôn nguôi. Ý nhạc không tươi trẻ như Tuổi 13, hồn nhạc không dịu dàng như Áo Lụa Hà Ðông. Tôi đã mượn thơ ông để gửi gấm tâm sự mình. Tôi biết khi tôi đi Sàigòn đã buồn, và Sàigòn đã nhìn theo.

Năm 1981, sau khi về cư ngụ tại thành phố Seattle, trong nỗi nhớ những con đường, những hàng quán thân quen của Sàigòn ngày nào, cùng với ám ảnh thương yêu về Áo Lụa Hà Ðông, về Paris của một thời, tôi đã viết bài Nắng Paris Nắng Sàigòn:

Tôi đi giữa trời Paris mà nhớ thương Sàigòn
Nắng Sàigòn hôm nao dìu bước chân em
Qua phố phường vào quán chợ thân quen...

Tôi nghĩ đây là một kết hợp đẹp của một phần đời nhạc Ngô Thụy Miên và thơ Nguyên Sa.

Năm 1986, nhà thơ gọi lên tôi và nói sẽ thực hiện một cuốn cassette gồm một số bản nhạc phổ thơ mới của ông. Tôi gửi xuống ông "Tháng Giêng Và Anh", đã được Hải Lý hát, và sau đó là Vũ Khanh, Ý Lan, Khánh Hà… Ông rất thích bài hát này. Tiếc là bản nhạc đã không được phổ biến rộng rãi như ý ông muốn.

Ðầu năm 1997, tôi về Cali ra mắt cuốn CD Riêng Một Góc Trời, trong đó có bài "Cần Thiết" phổ từ thơ ông do Thanh Hà hát. Gần đến phút cuối chương trình, tôi được biết có ông đến tham dự. Rất tiếc tôi đã không thể đến gặp ông để chào hỏi, cũng như ngỏ một lời cảm ơn.

Năm ngoái khi anh chị Duy Trác qua Seattle thăm bạn bè, chúng tôi đã có dịp gặp lại nhau. Anh em hàn huyên tâm sự, và anh tặng tôi một cuốn cassette có chương trình phát thanh giới thiệu chủû đề Thơ Nhạc Nguyên Sa/Ngô Thụy Miên do anh thực hiện tại Houston Texas. Trong chương trình này anh Duy Trác có nhắc lại:

Thi sĩ Nguyên Sa đã có lần nói rằng bài thơ Áo Lụa Hà Ðông của ông có một số mệnh rất đặc biệt. Khi bài thơ được nhạc sĩ Ngô Thụy Miên phổ thành ca khúc, và ca sĩ Duy Trác trình bày, thì từ đó cái tên Áo Lụa Hà Ðông đã gắn chặt tên tuổi của 3 người, thi sĩ, nhạc sĩ và ca sĩ. Nó đã trở thành một định mệnh. Mặc dù đây không phải là bài thơ hay nhất của Nguyên Sa, cũng như không phải là ca khúc tuyệt tác nhất của Ngô Thụy Miên, cũng như không phải là bài hát mà ca sĩ Duy Trác trình bày thành công nhất.

Một lần nào đó tôi đã nói "trong nhạc Ngô Thụy Miên, thơ Nguyên Sa có một chỗ đứng rất đặc biệt…" Vâng, trong nhạc tôi ý thơ ông bàng bạc khắp nơi, đâu đó thấp thoáng một chút nắng Sàigòn, một chút lụa Hà Ðông, đâu đó bâng khuâng một chút trời Paris và người yêu rất nhớ… Ðịnh mệnh đã cho tôi được đọc thơ Nguyên Sa, được nghe tiếng hát Duy Trác, được thưởng thức hoà âm của Văn Phụng, để ngày hôm nay, và mãi mãi sau này, dù các anh còn ở đây, hay đã đi rồi, tôi vẫn xin được gửi lời cám ơn chân thành nhất của một người viết nhạc tình ca đến các anh. Xin lần cuối gửi lời cầu chúc nhà thơ một chuyến đi xa về nơi an lành, vĩnh cửu.

Ngô Thụy Miên
4/1998

phale
07-08-2009, 01:50 PM
Hai mươi năm ngày mất nhà thơ lớn Chế Lan Viên
Vũ Quần Phương

“Mười bẩy tuổi, khi còn ngồi trên ghế nhà trường trung học đã có tập thơ gây sửng sốt cho thi đàn, quả là một thần đồng, tám năm cuối đời lại có sức bút đủ làm thành một sự nghiệp riêng, không thua gì cả đời thơ đã trải, Chế Lan Viên là một tài năng thơ lực lưỡng nhất trong các nhà thơ hiện đại.” Nhưng Chế Lan Viên không chỉ lực lưỡng về sức viết, cái ông lớn ở tầm tư duy thời đại của dân tộc mới thật đáng kể. Có thể hình dung, trong biển thơ mênh mông nước Việt, một mình Chế Lan Viên làm một dòng hải lưu trào dâng cuồn cuộn lan toả. Kỳ lạ là Chế có những bước đi khác hẳn người đương thời: Khi bạn bè ông rên xiết bóng bẩy thì ông khiến người ta kinh hoàng; khi bạn bè ông véo von ngợi ca thì Chế trầm tư ngẫm ngợi, còn khi con em mình vẫn đang hoang mang trước những tung toé thì ông đã dường như ở hẳn cõi khác nhưng từ đó vọng về khúc bi ca bất tận của thân phận làm người. (VanVn.Net)

Lượng thơ, gộp trong hai tập đầu của bộ Chế Lan Viên toàn tập (gồm 5 tập), chiếm ngót 1400 trang khổ 13,5 x 20,5, trong đó Di cảo mới công bố 3 tập (đã soạn xong tập thứ tư . Chế Lan Viên có thơ bốn câu và cũng có nhiều bài tới nghìn câu khổ rộng. Tập Những bài thơ đánh giặc (Thanh Niên 1972), 78 trang, mà mới chỉ ba bài. Khối lượng đồ sộ, bao gồm nhiều chặng cảm xúc và nhận thức cuộc sống. Đến nay, sau 17 năm ông xa khuất, đã có độ lùi năm tháng, thời cuộc cũng lắm đổi thay, lắm thử thách còn mất của văn chương, bài giới thiệu này muốn một cái nhìn bao quát cả đời thơ ông: đâu là chất thơ vĩnh cửu ngay trong những bài thơ thời sự, đâu là những khác biệt trên từng chặng trong một Chế Lan Viên thống nhất...

Điêu tàn, 36 bài và sau Điêu tàn, 34 bài nữa, coi chung là những thi phẩm trước cách mạng của ông. Chủ đề Điêu tàn được nhiều người xác định là tiếng than khóc cho một đất nước đã tiêu vong. Đúng thể, nhưng chưa đủ. Bởi ngay trong đề tài Chàm này, mà đề tài Chàm mới chỉ chiếm một phần Điêu tàn, thì cảm hứng thơ Chế Lan Viên đâu chỉ khuôn trong nỗi buồn vong quốc của dân Chàm, đâu chỉ là nỗi nuối tíêc khung cảnh huy hoàng nước non Hời trong dĩ vãng. Ngoài Những cô thôn vàng nhuộm bóng chiều tươi với Những chiến thuyền nằm mơ trên sông lặng / Bầy voi thiêng trầm mặc dạo bên thành và Những Chiêm nữ nhẹ nhàng quay lại ấp / Áo hồng nâu phủ phất xoã lời vui... Còn gì nữa chứ. Còn, ấy là:

Sọ dừa ơi hãy nghe ta truyền phán
Hãy ngả nghiêng lăn lộn, hãy kêu gào
Hãy rít lên những điệu xương vỡ rạn
Hãy buông ra những tiếng máu sôi trào

Còn:

Rồi lấy ra một khớp xương rợn trắng
Nút bao giòng huyết đẫm khí tanh hôi
Tìm những “miếng trần gian” trong tuỷ cạn,

Nhà thơ trẻ lãng mạn Chế Lan Viên muốn gì trong cõi yêu tinh kinh dị u uất ấy?

Hãy về đây, về bên ta mi hỡi
Đem cho ta những phút rỡn kinh hồn
Những phút mộng điên cuồng, mơ dữ dội

Ông muốn tìm giải thoát trong cõi yêu ma. Chán sắc màu thật của trần gian nên thích hồn phách say sưa trong giả dối(...) Cho lăn lóc hồn mê trong Ảo Huyễn. Tự tạo ra ảo huyễn. Nước Chàm xưa chỉ là một (trong nhiều) ảo huyễn được gợi nên từ bóng dáng đổ nát những tháp Chàm ngày đêm in bóng trên nền trời Bình Định, trên không gian tuổi thơ của tác giả. Đây là chỗ giao thoa của hồn thơ Chế Lan Viên và Hàn Mặc Tử. Hàn Mặc Tử ảo huyễn trong cõi điên, xáo trộn yêu ma với Thiên Chúa, với Thánh Thần. Chế Lan Viên tìm vào cõi âm, hồn thơ lảng vảng tìm thi hứng từ những tha ma, huyệt mộ, đầu lâu, xương tàn, máu, não ... Không gian là trăng mờ, bóng tối, đêm đen. Nhân vật là Các cô hồn lặng ngắm cõi hư vô. Đến tiếng mõ lốc cốc của trần gian, ông cũng thấy Tựa đầu lâu reo dưới khớp xương tàn Trong thơ cổ điến nhiều nhà thơ cũng đã nói tới cõi âm. Nguyễn Du trong Văn Chiêu hồn cũng đã phục hiện bóng dáng những cô hồn Lôi thôi bồng trẻ dắt già. Nhưng không dựng các chi tiết đặc tả xác chết, hồn ma ghê rợn, tiếng xương kêu, máu thét kinh hoàng. Mạch cảm xúc này cha ông ta ít khi khai thác, nó không có trong truyền thống. Phương Tây thì nhiều, rõ và gần nhất là Beaudelaire. Niềm kinh dị (chữ của Hoài Thanh) do Chế Lan Viên gây nên xuất phát từ đây. Nhưng, theo tôi, sức thu hút của Điêu tàn không chỉ ở kinh dị với ma khóc quỷ hờn, đầu lâu la hét...trong cõi âm mờ tối, mà nhiều hơn lại ở sự mê đắm. Mê đắm vẻ đẹp rất nhiều ánh sáng kỳ ảo của trần gian thanh thiên bạch nhật. Thiên nhiên tươi sáng, son trẻ, nghịch ngợm, đa tình.

Cảnh xuân:

Hàng dừa cao say xưa ôm bóng ngủ
Vài quả xanh khảm bạc hớ hênh phô
Xoan vươn cành khều mặt trời rực rỡ
Bên bóng râm lơi lả nhẹ nhàng đu

Cảnh thu:

Mặt trời nở trong ô cây thếp bạc
Trên ngàn xanh nhí nhảnh ánh vàng lay
Muôn chim non cùng ngây thơ ca hát
Lũ bướm vàng quên lạnh thẩn thơ bay

Đây cũng là khí quyển quen thuộc của phong trào Thơ Mới. Trong tâm lý tiếp nhận cảnh sắc ấy có lòng yêu đời say đắm, say đắm mà thành lãng mạn mà tạo thần tiên cho cõi trần. Đây lại là chỗ giao thoa của Chế Lan Viên với Xuân Diệu và cả với Thế Lữ (Thế Lữ tạo thần tiên hơi quá tay nên có hao hụt thi vị trần tục). Hồn người thơ ở đây trong trẻo quá, cách xa lắm với khí đêm u uất cõi ma trong các bài thơ khóc dân Hời. Cảnh xuân: tả cây, tả quả, tả cành, tất cả đều nhân cách hoá, đây say sưa ôm bóng ngủ, kia hớ hênh phô, hoặc khều nghịch ngợm. Tinh, hóm, sống động. Nhưng thần tiên nhất là cái bóng râm, không sống chết, nhưng lại đa tình hơn cả, lơi lả nhẹ nhàng đu. Cảnh thu có cây, chim non, bướm vàng sinh động nhưng chưa kỳ ảo bằng cái ánh vàng, nó nhí nhảnh lay. Những nét ảo chấm phá điểm xuyết ấy làm cảnh thực lung linh hơn chính nó. Một chút như vô tình buột ra thế thôi nhưng đấy là dấu hiệu của tài năng, không dễ có. Giai đoạn sau Điêu tàn , bút pháp ảo trần gian trong trẻo này được vận dụng nhiều. Bài thơ Trưa đơn giản là thành công tiêu biểu cho khuynh hướng này. Những không gian trưa trưa quanh vườn, trưa quanh gốc, trưa lên trời, trưa lạc vào lăng tẩm, trưa bước xuống những sân ga... các trưa điển hình của hiện thực nhưng được thu nhận bằng cái nhìn ảo. Thực ảo lẫn vào nhau, tạo một cảm xúc chập chờn nửa vào cõi lạ nửa trong cõi đời. Câu thơ mê đi làm tỉnh thức rất nhiều cảm giác, ý thức thành mơ hồ, tài tình lắm:

Trưa, theo tàu bước xuống những sân ga
Dựng buồn lên xa gửi đến Muôn Xa
Đây trưa hiện hình trong căn trường nhỏ
Đưa tay thoa những hàng kính vỡ

Đây là một chặng phát triển cảm xúc Chế Lan Viên sau giai đoạn kinh dị. Đôi lúc ông tạt qua bút pháp ấn tượng, tạo nét siêu thực chừng mực, đủ sức gợi. Ý nghĩa câu thơ lùi lại phía sau nhường cho cảm giác hình thành:

Thâm khuê ý thức chong đèn lạnh
Mặt nguyệt tâm tư tròn vẹn gương
Chiếc én thành son chưa đẫy cánh
Nét đau xanh liễu chửa buông tường

Chế Lan Viên không phát triển bút pháp này. Hướng ấy là sở trường của Nguyễn Xuân Sanh, nhưng bài thơ Lại thấy thời gian này ( viết khoảng 1937-1946) là một bài thành công, cho thấy biên độ cảm hứng của Chế Lan Viên khá rộng.

Cách mạng tháng tám thành công, đất nước bước vào chặng lịch sử mới, Chế Lan Viên cũng như hầu hết các nhà thơ lãng mạn của phong trào Thơ Mới cũng vào chặng sáng tác mới: tự nguyện biến thơ mình thành công cụ vận động đồng bào đánh giặc cứu nước. Nhà thơ lãng mạn nổi tiếng trở thành cây bút hiện thực dò tìm những bước đi đầu tiên. Nhiều trồi trụt và ấu trĩ. Nhưng hôm nay, sau hơn nửa thế kỷ với biết bao biến động của đường lối văn nghệ, đọc lại không thể không khâm phục ý chí vì đại nghĩa của lớp nhà thơ “tiền chiến” ấy. Tập thơ bao trùm giai đoạn sáng tác chín năm kháng chiến Gửi các anh là một tập thơ mỏng, ướm thử nhiều thủ pháp, cốt sao tải được hiện thực cuộc sống lẫn ý tưởng tác giả khi ấy. Khó có thể coi bài nào là hoàn chỉnh, nhưng lại hé cho thấy những khuynh hướng mới, sau này sẽ phát triển rõ trong Ánh sáng và Phù sa. Lối viết chính luận tung hoành trong các câu thơ rộng khổ ở các bài Cành phong lan bể, Tàu đến , Tàu đi đã được báo hiệu từ những thể nghiệm của bài Chào mừng ( viết năm 1950). Cũng như vậy, Đi ra ngoại ô thoát thai từ Trường Sơn. Và Kết nạp Đảng trên quê mẹ từ Đưa con ra trận. Điều đó chứng tỏ hướng tìm của Chế Lan Viên những năm kháng chiến chống Pháp là có ý nghĩa. Chúng ta hiểu thêm: ngay ở những nhà thơ tài năng, để chín trong một khuynh hướng sáng tác mới cần một lao động thơ bền bỉ hàng thập niên. So với thơ viết trước cách mạng, Gửi các anh ham ôm chứa hiện thực, đôi lúc thơ làm nhiệm vụ ký sự, đôi lúc thơ thuyết minh bình luận sự kiện quá đầy đủ và khô khan, nhưng có một bước phát triển bạn đọc cần ghi nhận là chính từ tập thơ này Chế Lan Viên bộc lộ khuynh hướng nâng cao phẩm chất trí tuệ cho thơ. Khuynh hướng này về sau thành một đặc sắc của Chế Lan Viên. Tư duy sắc sảo, huy động hình ảnh tạo nên những cặp phạm trù, những mạch nghĩ lôgic, đó là những công cụ mới thể hiện cảm hứng người viết và dẫn dụ cảm xúc người đọc. Hình ảnh khi tương phản: Việt Nam những ngày nguyên tử vẫn xông lên hàng đầu với gậy tầm vông, khi cộng hưởng, trùng điệp: Những thành phố lớn cưu mang trong lòng, những nhà máy lớn / Nhưng lớn lao thay là những người đã thắng được máy móc và để lại tên cho phố phường. Bản thân nó chưa thơ (suy tưởng lấn hình tượng) nhưng nó dẫn đến những nhận thức mới mẻ, bất ngờ.Đến thời Ánh sáng và phù sa, khi hình tượng thơ hoàn chỉnh, nó thành những câu thơ đúc kết chân lý:

Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn

Càng về sau hứng thú khi đọc thơ Chế Lan Viên càng thiên về hứng thú trí tuệ. Và từ trí tuệ mà nảy sinh tình cảm ở một chiều sâu mới. Bài thơ dựng lại con đường Hồ Chí Minh tìm đường cứu nước mang cái tên dài Người đi tìm hình của nước. Bản thân cái tên ấy là một câu thơ hàm súc. Hình tượng thơ nằm trong hình ảnh đi tìm hình của nước, nghĩa là tìm dạng thức tồn tại cho đất nước (Độc lập hay Liên hiệp? Cộng hoà hay Quân chủ?...). Cách nói ấy mang tính trí tuệ và trở thành tứ của bài thơ. Bài thơ kết thúc khi cái hình nướchiện ra, trong hòn đất Pac Bó được Bác Hồ nâng trên tay ngày trở về:

Kìa bóng Bác đang hôn lên hòn đất

Trong màu hồng hình đất nước phôi thai

Ánh sáng và Phù sa xuất hiện năm 1960, trong mùa chín của các nhà thơ cách mạng đi từ phong trào Thơ Mới lãng mạn với các thi phẩm của Xuân Diệu (Riêng chung) Huy Cận (Trời mỗi ngày lại sáng) Tế Hanh (Gửi Miền Bắc) Lưu Trọng Lư (Toả sáng đôi bờ)...tạo một không khí sầm uất cho thơ, trong chừng mừng nào đã bộc lộ được mặt mạnh của khuynh hướng mở rộng cánh tay thơ ôm chứa lấy cuộc đời. Phẩm chất trữ tình mới và cả bút pháp thể hiện mới của Ánh sáng và Phù sa như một cú hích cho cả nền thơ Miền Bắc hồi ấy. Nhiều cây bút trẻ bị phong cách Chế Lan Viên thu hút. Từ đó cho đến khi mất, Chế Lan Viên đều đặn cho xuất bản Hoa ngày thường – chim báo bão (1967) Những bài thơ đánh giặc (1972) Đối thoại mới (1973) Hoa trước lăng Người (1977) Hái theo mùa (1977) Hoa trên đá (1984). Các tập thơ vận động trên cùng một trục thi pháp Chế Lan Viên, nhưng mỗi tập là một phát triển dung lượng chất chứa hiện thực: chuyện đánh giặc, chuyện đời thường.

Thơ đánh giặc của Chế Lan Viên là thơ bình luận, tranh luận về phẩm chất anh hùng của cuộc chiến đấu, về lý tưởng cao cả và đức hy sinh to lớn của dân ta. Có thể nói trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, thơ Chế Lan Viên đã thành chỗ tựa tâm hồn cho người đánh giặc. Còn nhớ, những ngày đầu Miền Bắc chống không lực Hoa Kỳ ngay từ 5-8-1964, tin chiến sự như vang cùng thơ Chế Lan Viên, làm phấn chấn và thôi thúc lòng người. Tên sông tên núi gọi lên khi ấy thấm thía, xao xuyến biết bao nhiêu:

Hãy yêu! Hãy yêu! Hãy yêu và bảo vệ
Mây nước, cửa nhà, văn học, ngữ ngôn
Một đảo vắng Hồn Ngư còn chớp bể
Một rặng núi Kỳ Sơn từng lắm lúc mưa nguồn

Tình cảm nhà thơ cộng hưởng với tình cảm toàn dân yêu đất nước. Suốt mười năm từ 1965 đến 1975, Chế Lan Viên đồng hành cảm xúc mình với cuộc chiến đấu thống nhất đất nước. Thơ ông vào trận, khi hào sảng âm vang như văn Hịch tướng sĩ thời Trần: Tổ Quốc bao giờ đẹp thế này chăng (1965) Con mắt Bạch Đằng, con mắt Đống đa (1966), Suy nghĩ (1966)... Khi bừng bừng căm giận, sôi sục anh hùng ca:

Hãy may lấy cờ ta trong giận dữ
Những lá cờ to gấp triệu núi sông ta
Dẫu muốn sống không thể quỳ để sống
Hái hoà bình xin hái giữa phong ba.

khi lại mảnh mai thăm thẳm như cái nỗi nhớ mơ hồ một địa danh nhỏ nhoi bên kia vĩ tuyến, cái thành phố Sông Cầu, :

Một trưa bình thường mắt không ngó tới

Một đất bình thường xe ta qua mau
Trả thù ta
Bắt lòng ta nhớ mãi
Sông Cầu ơi, sông Cầu...

Ngày toàn thắng 30-4-1975, Chế Lan Viên công bố bài thơ dài Ngày vĩ đại, viết 3-5-1975, in tràn một trang nhật báo khổ to. Giọng thơ ào ạt như thuở nào Đại cáo Bình Ngô trúc chẻ ngói tan, thần tốc thắng giặc, những thương nhớ đau đớn âm thầm nén lại bấy nhiêu năm cắt chia, bom đạn như được ào ra trang giấy cười, khóc, xót thương, hả hê, hào hứng ...Vậy mà chưa đã, Núi sông lành chỗ cắt vẫn còn đau, hai tuần sau đó, vẫn thể thơ ấy, một bài dài gần gấp đôi xuất hiện, sâu lắng thâm trầm hơn, cảm nhận trở lại những gì dân ta, cả phía bên này lẫn phía bên kia, đã cắn răng chịu đựng Đau sông nước muôn phương thân vạc thân cò. Dung lượng bài thơ đủ cho tác giả bình luận mọi lĩnh vực. Chỗ tình cảm đằm thắm, có chỗ lại lý sự, tranh luận. Cái thế tranh luận của người chiến thắng, bút pháp tung hứng nhưng cũng rất dễ tự say lời.

Thơ đời thường, trong đó có thơ tình yêu, ở Chế Lan Viên rất phong phú. Cũng để dễ nói thì chia ra như thế. Thực tế, đánh giặc đã là chuyện đời thường rồi, đề tài nọ vốn lồng vào đề tài kia . Xếp hàng mua gạo, mua vải hẳn phải là chuyện thường ngày, nhưng cũng là chuyện đánh giặc, là tư thế đánh giặc;

Một triệu quân giặc rối bời như canh hẹ
Ở đây ta xếp hàng

Chế Lan Viên nắm bắt rất nhanh những chủ đề thơ của các sự kiện, các hiện tượng, thậm chí của một nét tâm lý thoáng qua. Bài thơ nào cũng như một chiêm nghiệm xử thế, sức khái quát sâu, mà cảm động:

Lòng rất là vô lý
Mừng hoa sữa vào thu
Lại tiếc hè qua vội
Chưa kịp hái sen hồ

Lòng người “tham” là vậy. Ta trải qua mà không để ý. Với Chế Lan Viên, nó đọng lại, nó khuyên ta được những điều xa hơn, rộng hơn chính nó. Có bài, do kiểu tư duy thơ của Chế làm hiện thực bật ra tình huống thơ. Tiếng chim ở Vĩnh Linh sau ngày Mỹ ngừng bom, ngoại cảnh chỉ có thế, nhưng nội tâm nhà thơ đi qua gian lao của chiến tranh, đã tạo nên tình thế xúc động thơ:

Bốn năm đạn lửa chim bay hết
Nay tiếng bom im cánh biếc về
Tiếng hót đầu tiên, ơ lạ lắm!
Cả làng rưng lệ đứng im nghe

Câu cuối là của lòng nhà thơ tạo thêm cho hiện thực. Chế Lan Viên ngay cả những bài thơ phục vụ kịp thời cũng không có câu thơ non lép. Ông kỹ càng câu chữ. Gần như bài nào cũng có yếu tố sáng tạo. Người ta yêu tứ thơ của ông, và yêu cả ngôn ngữ, đặc biệt âm điệu câu thơ. Tiếng chim cu gù sau ngày đình chiến cũng trùng xương cốt chủ đề với chim biếc Vĩnh Linh, nhưng phập phồng da thịt cuộc sống xa, gần, xưa, nay. Âm điệu ngắn dài đứt nối vắt qua các câu thơ, như liền lại như đứt, mô phỏng tiếng chim cu gáy những trưa quê rất khêu gợi:

Hồn đất nước bâng khuâng theo tiếng chim dân dã
Như chửa nghe bao giờ. Mà như đã
Nghe rồi. Tự đâu thời xa xửa xa xưa.

Hai vế đề tài Hoa ngày thường và chim báo bão trong thơ kháng chiến chống Mỹ và mươi năm sau đó của Chế Lan Viên luôn luôn phát triến song hành. Biên độ cảm xúc rộng, bút pháp biến hoá, có lúc kết hợp cả trào phúng.

Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến luỹ.

Hình ảnh ấy, trước hết, hợp với chính Chế Lan Viên. Không chỉ vì thơ ông có mặt kịp thời trong những khoảnh khắc thử thách ngặt nghèo của cuộc chiến mà còn ở tầm vóc và tư thế cảm xúc. Ông là người chủ lực trong cả nền thơ, tạo nên mạch trữ tình lịch sử, trữ tình của những sự kiện lớn. Cảm xúc choán những biên độ rất rộng Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào Cửa Bắc đến Văn Chiêu hồn từng thấm giọt mưa rơi. một đầu là lịch sử, đầu kia đã là thân phận con người. Cả hai hình ảnh đều rất gợi cảm, gợi nghĩ ngợi. Nhiều nhà nghiên cứu gọi Chế Lan Viên là nhà thơ trí tuệ ( dù ông không thích, nó như anh đeo kính gọng vàng! ) có lẽ là do đặc tính ôm trùm rộng xa và uyên bác này.

Kinh nghiệm một nhà thơ lớn cho ông biết cái cách chuyển thơ trên đại lộ rất dễ thiếu đi sắc hoa hương cỏ của những lối mòn quanh quất, nhỏ mà rất thơ. Hướng Hoa ngày thường luôn được ông để tâm khai thác. Chế Lan Viên tận dụng tứ tuyệt để viết ngay, viết gọn những thoáng gặp thơ hồn nhiên, không để cái thói quen “tư tưởng hoá” kịp ập vào

Quên mất mình vừa sáu chục
Mở trang giấy rộng viết dài
Gương nhắc mái đầu chớm bạc
Lại làm có bốn câu thôi

Ông nhớ căn phòng ở sứ Việt nước người trong mấy đêm tá túc cũng như từng chợt nhớ: nhớ nhà cha mẹ, cảnh trường xưa...Những cái nhớ không đâu, những cái buồn không định... ông đều đánh dấu vào thơ. Có khi nghĩa thơ chưa sâu nhưng nghĩa đời lại nặng, những câu thơ nhỏ cho thấy đời một nhà thơ lớn:

Còng lưng tưới nước , vạt rau khô
Bơm hỏng mà đâm khổ cả nhà
Đêm ngủ chỉ lo toàn vật giá
Xa dần truyện ngắn, bớt dần thơ

Xa dần truyện ngắn là bà Vũ Thị Thường, vợ ông, bớt dần thơ là ông muốn diễu mình. Dọn vào thành phố Hồ Chí Minh, ông không xin nhà, tự bỏ tiền mua một căn nhỏ trong hẻm. Ít lâu sau, bán đi , mua một căn có vườn, tít ngoài Tân Bình. Nhà một tầng, cây ăn quả xung quanh. Ông thích lắm, đặt tên chữ Hán cho sang Viên tĩnh viên. Nhưng đất phèn, cây không lên được. Cái ý định tự trồng lấy rau mà ăn xem ra cũng không dễ. Bài thơ trên viết năm 1985, cuộc sống vật chất toàn dân đều khó. Tôi đến thăm, ông mặc bộ bà ba nâu, đi chân đất, dẫn đi thăm cây, nói về đất phèn và giảng Nam Hoa Kinh. Năm (1986), Khi nhà xuất bản Văn Học phát hành Tuyển tập Thơ Chế Lan Viên 400 trang, ông hào hứng viết thư: thế là mình xây xong mộ cho mình rồi. Bây giờ còn ngày nào, mình nằm gác chân lên cửa sổ nhà mình, muốn viết gì thì viết. Lắng nghe trong câu nói tếu táo ấy, một mong muốn thầm lặng của ông, hình như ông còn nhiều thứ phải đợi xong nghĩa vụ với đời mới viết cho mình. Hôm đọc trên báo bài Cờ lau Đinh Bộ Lĩnh (1988), qua tâm sự ông vua, đã thoáng thấytâm sự ông nhà thơ:

Đã lâu ta không nghe hồn lau gọi nữa
Xa tiếng gió xạc xào ?
Xa mùi bùn, mùi trâu, rơm rạ ?
Chỉ nghe danh vọng ầm ào ? Vinh quang xí xố.

Câu cuối cùng ở bài thơ ấy, khi ông vua Đinh kêu lên: Hồn ta ở đâu?. Ta nghe thấy khát khao của nhà thơ Chế:

anh ấy Điêu Tàn, anh ấy Phù Sa
anh ấy đọc hồn trời, hồn đất
câu cuối cùng hỏi đâu hồn ta
(thơ Vũ Quần Phương, trang45,

Vết thời gian, Văn học-1996)

(còn tiếp)

phale
07-08-2009, 01:52 PM
Hai mươi năm ngày mất nhà thơ lớn Chế Lan Viên
Vũ Quần Phương

Trong tập Hoa trên đá (1984), Chế Lan Viên cũng đã quay lại với giọng nhỏ trữ tình riêng tư, như hồi nào ông viết Ánh sáng và Phù sa. Tập trước, 1960, đánh dấu sự chuyển hướng thành công, từ chân trời một người đến chân trời mọi người. Tập sau, một phần tư thế kỷ đi qua, là sự kết tinh một đời thơ, thu ngoại giới vào hồn mình, thành hồn mình. Hoa trên đá là một mốc chuyển đáng lưu ý của Chế Lan Viên. Chủ thể cá nhân bộc lộ khá nhiều mà không cá nhân chủ nghĩa:

Đời ngoài tuổi năm mươi
Mong gì hương sắc lạ
Mọc chùm hoa trên đá
Mùa xuân đâu chịu lùi

Nông nỗi cá nhân, mà buồn nữa. Tình thế buồn nhưng người không cam phận.

Chả bề nào khuây được bể đâu
Trừ ra bể sâu hơn bể nữa
Bể gây những cuồng phong bão tố
Cũng để quên mình lỡ đã thẳm sâu

Bi kịch nhưng cũng là cái giá phải trả cho sự biết, nhất là để biết mình. Rất nhiều bài thơ như tự vấn trở lại những cái ngỡ như đã biết, thậm chí, đã giảng cho người khác: lẽ nào, chẳng lẽ, ngỡ như...Một nhà thơ nổi tiếng là thông minh, uyên bác và hùng biện như sông Hồng sông Mã, gầm reo trong đạn lửa, lúc cao niên lại muốn im lặng mà lắng nghe tiếng thì thầm của con sông Thương nước mắt sông nhớ thương ai mà nước chảy đôi dòng. Thơ cảm động ở nỗi sâu nặng tình đời, như khi nghe cô gái xênh tiền:

Chỉ là nhịp gõ ấy sao mà
Em xoay tà áo thì ta khóc
Khi thoảng ngang lòng tiếng í a

Tâm hồn nhà thơ như yếu đuối hơn, ông nài nĩ với cuộc đòi:

Nghe hết câu chèo đã, được không
Vội gì trăm núi với ngàn sông
Lặng đi một phút cho câu hát
Cùng với mầu mây thấm tận lòng

Cũng đề tài chiến tranh, sau rất nhiều bài thơ tung hoành như cáo, như hịch, như anh hùng ca giúp người đứng vững giữa đạn bom mà đánh giặc. Nay đất nước yên hàn, lòng ông lắng lại, cân lại những hy sinh Những giọt lệ khô rồi bây giờ lại nhỏ. Ông sống lại nỗi lòng người vợ đợi chồng: Đêm đối diện với ngọn đèn hạt đỗ. Ông xót xa trong đêm hò dấu nỗi đau từ tạ:

Anh cúi mặt bên đèn khêu lại bấc
Nước mắt nhỏ sau câu hò, em lấy tay che

Ông không dấu vị đắng của lòng mình khi trở về quê cũ An Nhơn sau chiến tranh, sau thời chia cắt Chẳng lẽ thăm quê lại hỏi người. Có câu thơ thật thà như câu nói mà trong hồn vía nó có chiêm nghiệm của cả đời người:

Ở đâu đong hạnh phúc chén đầy, đây chỉ chén vơi
Một hạt tấm con no suốt một đời

Bao nhiêu nỗi buồn của con người thời thơ tránh né, tránh né để lòng yên mà đánh giặc, Chế Lan Viên tự tin mà nhặt lại. Ngay nỗi buồn của lòng ông, kể cả cái tình thế cùng đường bị thời gian dồn đuổi Anh như ông vua Thục / Bị đưổi khỏi thời gian ông cũng không che dấu. Đó cũng là sự tự tin của cả nền thơ. Nỗi xúc động làm bừng tỉnh giữa cơn say ở làng Hung hay vị cay nhoè mắt khói củi sồi năm sơ tán làng quê ngoài Bắc, cỏ xanh ở Tháp Rùa hay lau trắng nơi biên giới...là những cảm xúc đã nâng thành trí tuệ, một cốt cách cổ điển mới của thơ hiện đại..

Sau khi ông tạ thế, liên tiếp ba tập di cảo được xuất bản (1992, 1993, 1996), bạn đọc sửng sốt và vui mừng: một Chế Lan Viên khác, thực hơn, bạo hơn, gọn hơn, chắc hơn. Do vậy, mới hơn, trẻ hơn và rất lý thú là không hề cắt rời với thi pháp độc đáo Chế Lan Viên. Di cảo là những bài lúc sống, ông chưa đưa in. Chưa đưa in có lẽ vì ngần ngại năng lực tiếp thu của xã hội lúc đó.

Ông quan niệm lại nhiều thứ. Nghệ thuật là ước lệ. Thực quá có là nghệ thuật không. Dễ mất thi vị lắm nếu cứ thẳng thừng gọi đúng tên mọi vật

Để khỏi nhớ ơn, người ta bày ra chữ cám ơn
Cám ơn, một lần, hai lần, thôi thế là rảnh nợ

Bạo để được thực, nhưng bạo cũng lắm cái phiền. Thực ngay trong sự nhìn lại mình, vẽ ra chính mặt mình có khi lại bị chê là giả, vì người đời đã quen khuôn mặt giả mất rồi. Chế Lan Viên viết như bổ xung, như đính chính những điều đã viết. Nhiều cách nghĩ ta thấy lạ. Lạ với ông. Lạ cả với nền thơ. Nghĩ thế nào về đời, về thơ mà dẫn đến cách đánh giá chính mình như thế này:

Ôi! Con đường không ra đường của kẻ tìm thơ
Cái thơ không ra thơ của kẻ tìm đường

Ông như tách khỏi mình mà khảo sát chính mình, ở cái chỗ người ta tưởng ông đắc ý lại là chỗ ông đã xót thương :

Khi tôi cưỡi trên mây
Thì máu người rên trên đất
Mẹ hỏi tôi
Con lên cao mà làm chi
Mẹ ở dưới này cơ cực
Về đi!

Có người nghĩ Di cảo là thơ sám hối của Chế Lan Viên. Tôi không thấy thế. Di cảo chỉ là sự bổ xung. Chỉ nói nốt những điều trước kia tự ông dừng lại. Dừng lại không nói, chứ không phải không có nó trong lòng. Di cảo đi xa hơn nhưng vẫn trong hướng tìm của nhà thơ. Ông từng có bài thơ nói người tù Côn Đảo ban ngày trần mình ra chịu đòn thù đánh vào hồn vào xác, nhưng đêm về thì lấy trăng sao, hương gió mà nạp năng lượng cho trận chiến ngày mai. Bây giờ thấy ông còn có thêm đoạn ba này: là nói thế thôi, chứ đêm kẻ thù cũng chẳng để anh yên, cái cuộc đời ở đây phút giây nào chẳng phải căng ra mà chịu trận. Chế Lan Viên ở giai đoạn này, gắng nói gọn, nói hết những điều ông đã thấy, đã nghĩ, đã ngập ngừng. Quen tư duy bằng hình tượng, mọi điều nghĩ đã thành thơ phác thảo. Lúc này ông tước mọi uốn éo tài hoa mà thơ vốn có để nói bộp vào thực chất. Bài thơ ngắn đi, nhưng nghĩ ngợi nhiều, chìm sâu vào chiêm nghiệm.

Chiêm nghiệm cái đời người.
Chiêm nghiệm thơ.
Chiêm nghiệm xã hội, chính trị, vua quan, các thứ chủ nghĩa...

Thi pháp Di Cảo hiện đại hơn chính vì nó trình bày chất thơ để mộc từ trong lõi. Ông nói: các người đẹp, các vĩ nhân, các thi sĩ thiên tài thì tât cả đều có con nhặng xanh đón đợi. Ngay khi anh đang thơm tho với tuổi tên danh vọng, con nhặng xanh đã nhận ra cái mùi chung cục của anh rồi. Tốt cho anh là anh cũng phải nhìn ra nó sớm. Không phải chỉ tới những ngày trọng bệnh , mà thỉnh thoàng trong đời, ông lại ngẫm nghĩ về sự sống, về cái đời người:

Ừ anh là sông trôi, là hạt móc
Là tiếng khóc thất thanh. Nhưng anh lại
Là người. Việc gì phải tủi .

Không tủi mà còn thích thú nữa. Nhìn lại, có lúc ông tự trách:

Được làm người khoái thế
Vậy mà anh để hồn buồn và trán luôn cau.

Ông đi thăm lò hoả táng, quan sát nó vận hành. Nghĩ đến chung cục đời người thấy nó ghê ghê. Nhưng ngẫm lại, đó cũng là công việc của đời thường, chuyên cần nhịp nhàng:

Sáng đưa xác vào, trưa lấy xương ra
Đều đặn như bánh vào lò
Mỗi ngày hai suất
Việc phải đến thì nó đến. Ông đã từng băn khuăn

Ta đã nghĩ ra cái đẻ không đau
Nhưng cái chết không đau thì chưa nghĩ tới.

Rồi lại tự nhủ: mà nghĩ cũng chả để làm gì. Nào triết nào văn, nghe mãi nhức đầu. Trước cái cuộc hành trình nhẩn nha mà rất gấp của đời ấy, tốt nhất:

Ta đạp lên siêu hình và bớt nghĩ về ta
Thế là yên chuyện

Căng mình chống chọi với trời đông, ngạo nghễ như cây thông cũng chỉ là một cách mà cứ mềm mại buông mình xào xạc với gió thu như cây lau lại là một cách khác, không phải không hay. Ông lại nói, như một đấu tranh giai cấp tính: lên voi thì xuống chó, nhưng lên mới đến chó thì xuống đến đâu. Kiểu lập tứ ấy giống như một lối chơi tu từ, nhưng ngẫm kĩ nó là chuyện đời bây giờ đấy chứ. Chua chát! Ừ thì chua chát, đời mà, mấy khi ngọt. Người ta nói dối nhiều nên vu cho chú Cuội tội nói dối mà phê phán để trốn được tội mình đi.

Nói dối gì, Cuội thật biết bao nhiêu
Thế hệ nào đến cũng gặp mày nguyên tại chỗ
Chỉ kẻ nhìn lên trăng thì nói dối đủ điều

Lúc là chú bé con , hét một tiếng trong Văn Miếu, nghe tiếng vang mà sợ, chạy. Lớn lên, nói trên Đài, hét trong sách lại thích thú chờ tiếng vang dội lại, có khi còn chạy đuổi theo. Nay cuối đời thèm yên tĩnh, nhìn xuống huyệt mình lại thấy có tiếng vang(!). Chế Lan Viên ưa nghĩ ngợi, thích phát hiện những ý tưởng thâm trầm ở những sự việc đã quá quen mòn, không ai còn để ý. Nhìn cái lá sen ngoài hồ lật theo chiếu gió, liên hệ với tâm trạng mình, ông cho nó một ý nghĩa triết học:

Phía bên này lá sen là cuộc đời quá cũ
Danh vọng, giấy tờ, bàn tủ
Hoan hô và chửi rủa
Thế mà lật lá sen hồ, bỗng chốc phía bên kia
Bỗng chốc là mùi hương ở bên kia lá
Là ánh trăng ở trong tiếng gió
Là thì thầm ánh sao khuya
Trong cỏ...
Gọi anh đi

Ông tự hỏi: ông đã viết câu thơ cổ vũ hai nghìn người đêm ấy ra trận, chỉ ba mươi người về:

Một trong ba mươi người kia ở mặt trận về sau mười năm
Ngồi quán bên đường nuôi đàn con nhỏ
Quán treo huân chương đầy, mọi cỡ
Chả huân chương nào nuôi được người lính cũ!
Người lính cần một câu thơ giải đáp về đời
Tôi ú ớ
Người ấy nhắc những câu thơ tôi làm người ấy xung phong
Mà tôi xấu hổ

Con người thông minh và giàu lãng mạn, thuở đầu đời phóng ra xa tới siêu thực, cuối đời rút vào cốt lõi hiện thực, gạt đi mọi trang trí để lần ra thực chất đời người.

Thực chất cái goi là sự “bất tử”:
Có nhà thơ để lại bộ lông vằn tên tuổi
Các thế hệ sau đến độn vào đấy rơm và danh vọng
Thậm chí thêm cho con vật chết khô
Cả một tiếng gầm.

Thực chất cái chết, nó đã alô cho ông rồi, sỗ sàng, thẳng thừng. Thì nó sợ ai:

A lô! Nói gì nói nhanh lên
(...) Và nhìn gì thì nhìn đi
Không ai bịt mắt
Mà cũng đừng nhắm mắt
Nói lên vắn tắt
Rồi đi

Nhưng thực chất thơ. Ông nói tới đủ điều, ví với nhiều công việc. Mà vẫn như chưa vào thực chất thơ. Ông là nhà thơ nghiền ngẫm về chuyện làm thơ nhiều nhất. Những bài nói về nghề bằng văn xuôi, những chương nghĩ về thơ bằng thơ sâu sắc, tài tình. Giờ đây, thời gian kíp lắm rồi, ông vẫn lật đi lật lại, mê mải nói thêm. Ông so thi sĩ với hòn đá tảng, thơ nói ra (ở người) và thơ nén vào thành lửa (ở đá), cái nào hơn? Ông nhận ra cái không hoàn toàn mới là cái còn tiến hoá. Ông chấp nhận nghich cảnh: nụ hoa hồng vừa nhú tươi non trên cành ông khô nhựa. Ông biết quy luật của nghề:

Ta là ta mà luôn luôn bối rối
Tìm lại ta
Đi tám cõi mười phương rồi mới tìm ra
Nó ở trong nhà

Hơn bảy trăm bài thơ Di cảo là một cách dùng quy luật nghề để vượt lên nghịch cảnh. Ông đã thắng. Chỉ riêng với Di cảo thôi đủ tạo dựng sự nghiệp một nhà thơ lớn.

Nguồn: Hoinhavanvn

phale
07-08-2009, 02:23 PM
Bàng Bá Lân, Thơ như tiếng sáo diều (1)
Hòai Anh

Bàng Bá Lân nguyên họ Nguyễn Xuân, mới đổi ra họ Bàng đến Bàng Bá Lân là ba đời. Quê gốc ở làng Đôn Thư, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Sinh tháng 11 năm Nhâm Tý (tháng 12-1912) tại phố Tân Ninh, phủ Lạng Thương, tỉnh Bắc Giang. Dòng dõi nhà nho nên biết làm thơ từ nhỏ. Đã xuất bản những tập thơ Tiếng thông reo (1934), Xưa (chung với Anh Thơ, 1941), Thơ Bàng Bá Lân (1957), Tiếng võng đưa (1957).

Trong Thi nhân hiện đại (1941), Hoài Thanh viết: “Bàng Bá Lân không có cái tỉ mỉ của Anh Thơ, không nhìn đủ hình dáng đời quê như Anh Thơ. Anh Thơ có khi nhìn cảnh không mến cảnh. Bàng Bá Lân có khi lại mến cảnh quên nhìn, nhưng nếu đã lưu ý đến cảnh nào, Bàng Bá Lân thường lưu ý đến cảnh ấy - như khi người tả cảnh một buổi sáng

Cổng làng rộng mở. Ồn ào
Nông phu lững thững đi vào nắng mai

Ta thấy rõ người mến cảnh ấy lắm: lòng người cũng mở rộng với cổng làng và cùng vui với nông phu trong nắng sớm.

Bởi thế có lúc con người đã cảm được hồn quê vẫn bàng bạc sau cảnh vật. Tôi không biết làm thế nào nói cho ra điều ấy. Âu là cứ trích ít câu thơ của Bàng Bá Lân:

Quán cũ nằm lười trong sóng nắng
Bà hàng thưa khách ngủ thiu thiu
Nghe mồ hôi chảy đầm như tắm…
Đứng lặng trong mây một cánh diều

Cả cái hồn lặng lẽ ngây ngất của đồng quê dưới nắng trưa như ngưng lại trong mấy câu ấy.

Một lần khác, tả trưa hè trong gian nhà tịch mịch, người viết:

Bụi nằm lâu choán xà nhà
Nhẹ nhàng rơi phủ bàn thờ buồn thiu.

Mười bốn chữ, chữ nào cũng mang nặng một chút hồn. Thiết tưởng người ta không thể đi sâu vào cảnh vật xứ quê hơn nữa.

Ấy cũng vì Bàng Bá Lân sau khi hấp thụ ở thành thị nền học khá liền về ở nhà quê luôn. Người sống cuộc đời thong dong một ông chủ trại, thì giờ làm ruộng ít hơn là để làm thơ. Chuyện mộng của nhiều người với Bàng Bá Lân đã thành chuyện thực. Có nhiều người thanh niên làm gì thì làm vẫn ao ước thú điền viên, cái thú thân yêu của nhà nho ngày trước. Họ không đủ sống lam lũ như người dân quê thực. Nhưng thành thị thì họ chán ghét lắm rồi. Họ tức tối mỗi lần nghĩ đã đưa giọt máu trong sạch và cường tráng của ông cha đến nơi hẹn hò của bệnh tật, của tội lỗi”.

Theo tôi, không phải Bàng Bá Lân về sống ở nhà quê, nên cảm được hồn quê. Anh Thơ cũng sống ở Phủ Lạng Thương cùng với Bàng Bá Lân, còn Đoàn Văn Cừ thì cho đến khi xảy ra kháng chiến chống Pháp vẫn sống ở nông thôn, mà sao không tả được hồn quê như Bàng Bá Lân. Ta phải tìm câu trả lời ở mặt khác. Đó là phong cách của mỗi nhà thơ. Thơ viết về nông thôn của Đoàn Văn Cừ ít nhiều mang tính chất tả thực khách quan, gần với trường phái Thi sơn của Pháp, còn thơ viết về nông thôn của Bàng Bá Lân nhiều tính chất trữ tình chủ quan, gần với trường phái lãng mạn.

Trong bài phỏng vấn Bàng Bá Lân của Nguyễn Ngu Í trên tạp chí Bách Khoa CXI, khi được hỏi:

- Sáng tác để làm gì? Để cho mình hay cho thiên hạ? Để cho bây giờ hay cho mai sau?

Bàng Bá Lân trả lời.

- Chính vì câu hỏi mở đầu này mà tôi chậm trả lời để anh phải nhắc nhở, hỏi lại nhiều lần, vì tôi chưa bao giờ nghĩ đến việc sáng tác để “cho thiên hạ và cho mai sau”. Đó là một cao vọng vượt ra ngoài tầm tư tưởng của tôi. Có thể nói rằng, cũng như chim ca hót, ve than nắng, cuốc kêu hè, dế nỉ non khi hoàng hôn xuống… và nếu bị cấm làm thơ thì tôi khổ sở vô cùng.

- Sáng tác theo một đường lối nhất định nào hay là tùy hứng?

- Nói đường lối nhất định nghe có vẻ chính trị hoặc khoa học quá! Nhưng thật ra thơ tôi thiên về một hướng: ấy là nông thôn. Có lẽ tại tuổi thiếu thời tôi đã sống nhiều ở thôn quê; những cảnh vật cùng nếp sống của người quê đã in sâu vào trí não tôi nên về sau dù ở đâu tôi cũng vẫn không quên được mái đình cong cong, cây đa cô độc, ngõ tre thăm thẳm, đám mạ xanh rờn, đồng lúa vàng hoe, cùng những buổi nắng sớm mưa chiều, trưa hè oi nồng, đêm đông lạnh giá với mùa cấy, mùa gặt vất vả nhưng đông vui vang rộn giọng nói lời ca chan chứa tình thương mộc mạc…

Những cảnh vật đó cứ ám ảnh tôi hoài, bắt tôi phải nghĩ tới, nhớ tới chúng. Vì thế hình ảnh chúng choán khá nhiều chỗ trong thơ tôi. Có thể nói rằng, tôi làm thơ phần nhiều là để được sống lại những tháng ngày mộc mạc êm đềm đã qua bên bờ tre ruộng lúa.

- Những gì đã xảy ra trong tâm trí và trên trang giấy của tác giả từ khi tác phẩm bắt đầu thai nghén cho đến lúc nó thành hình?

- Với tôi không có gì “xảy ra trên trang giấy” cả, vì trong lúc làm thơ tôi ít khi viết ra. Phần nhiều những bài thơ của tôi được cấu tạo và thành hình trong trí não. Gần xong hoặc xong hẳn mới viết ra. Và khi đó chỉ còn việc sửa chữa ít lời chưa hay chưa ổn mà thôi.

- Xin cho biết những kinh nghiệm sống?

- Khi có một ý tưởng, một tứ thơ cần được thể hiện, tôi thường nghĩ luôn luôn đến nó như một ám ảnh. Có khi làm xong ngay, có khi kéo dài hàng tuần, hàng tháng chưa rồi! Tôi làm thơ bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào: khi đang đi dạo trên đường phố, lúc giữa hai giờ dạy học (đôi khi cả lúc đang “chạy trường”), khi đang đọc sách, đọc báo… Nhưng thường thì về ban đêm, khi đi nằm thao thức chưa ngủ được và lúc sáng sớm tỉnh dậy. Những giờ phút này với tôi, là thời gian sáng tác nhiều nhất.

Tôi làm thơ tuy là tùy hứng, nhưng cũng tùy cả ý chí mình nữa. Kinh nghiệm cho tôi hay rằng: có tứ rồi mà quyết chí làm xong thì phải xong. Trái lại, thì bỏ dở dang, kéo dài vô tận!

Thơ tôi làm xong, thường chỉ phải sửa đổi, gọt giũa rất ít. Có khi sửa xong ngay, nhưng thỉnh thoảng cũng gặp phải những chữ chưa ưng ý, mà nghĩ mãi không đổi được, nếu không có sự may mắn tình cờ. Tỉ như trường hợp sau đây:

Năm 1941, tôi cho xuất bản tập thơ “Xưa”, trong đó có một bài thơ ngắn về bức tranh thủy mặc Tàu cổ của ông tôi, nhan đề là “Bức tranh xưa”.

Non cao suối bạc tuôn dòng
Một cầu nho nhỏ, đường cong mép đồi
Nhà sơn ba túp lôi thôi
Rừng xa xào xạc gọi đôi chim về
Lối mòn hun hút chân đê
Xe trâu lọc cọc bánh kê gập ghềnh
Dặm xa lẽo đẽo một mình
Đổi vai khăn gói chạnh tình tha hương.

Có một chữ tôi chưa ưng ý: đó là chữ đổi ở câu cuối, vì tôi thấy nó thật thà quá, thiếu chất thơ! Nhưng nghĩ mãi mà không tìm được chữ khác hay hơn để thay thế, nên đành phải để vậy cho in mà lòng riêng vẫn hằng tấm tức? Tháng năm qua. Mãi đến năm 1945, Hội Trí Đức Dục Thanh Bình, nhân dịp khánh thành thư viện mới, mời tôi xuống diễn thuyết về vấn đề văn học (do nhà sách Minh Đức làm trung gian). Thế rồi, trong một bữa tiệc đầy đủ mặt thân hào, nhân sĩ, văn nghệ sĩ đất Thái, cô Anh Thơ (hồi đó ở Thái Bình) bị mời ngâm thơ. Trong số mấy bài thơ cô ngâm, có bài “Bức tranh xưa” mà câu cuối cùng cô đã ngâm rằng:

Dặm xa lẽo đẽo một mình
Trở vai khăn gói chạnh tình tha hương!

Tôi giật mình, mừng rỡ. Cái chữ rất thường ở ngay trước mặt, ngay đầu lưỡi, thế mà tôi đã bận trí tìm tòi hơn bốn năm ròng không ra.

Tiệc tan tôi hỏi thử Anh Thơ:

- Trong bài thơ của tôi mà cô ngâm, có một chữ lầm! Cô có biết không!

Nghĩ vài giây, nữ thi sĩ quả quyết trả lời:

- Không

- Cô nhớ lại câu cuối xem!

Anh Thơ vẫn quả quyết:

- Nhất định không lầm chữ nào!

- Có! Chữ “đổi” … Đổi vai khăn gói… cô đã tự ý sửa hay hơn là trở vai khăn gói.

- Anh nói đùa! Từ trước đến nay tôi vẫn nhớ và vẫn ngâm như thế mà! Từ đấy rút kinh nghiệm vừa kể, mỗi lần gặp một chữ bí miễn cưỡng mà chưa tìm ra chữ gì thay thế, tôi thường đọc cho bè bạn có khi cả con cháu trong nhà nghe, hi vọng gặp lại sự tình cờ may mắn trên, may mắn không kém gì nhà thơ Malherbe (1555-1626) với bài thơ “Stances à du Perier” vậy*

Trong bài viết về Anh Thơ trong cuốn Vài kỷ niệm về mấy Văn thi sĩ hiện đại (Xây dựng, Sài Gòn), Bàng Bá Lân viết:

“Lúc Anh Thơ đến, tôi đang chép lại bài “Bà đồ” mới làm xong. Anh Thơ xem và thích lắm, đòi coi tất cả những bài khác, rồi hỏi tôi bao giờ cho in Tôi trả lời:

- Cái đó còn tùy, vì một tập thơ ít ra cũng phải có chừng 25 hoặc 30 bài, mà tôi mới sáng tác được hơn mười bài, lại phải còn chọn lọc nữa chứ.

Tác giả “Bức tranh quê” liền đề nghị: Để cho tập thơ chóng hoàn thành và nếu tôi không thấy gì trở ngại, cô sẵn sàng hợp tác vì cô cũng rất mến yêu người xưa cảnh cũ và cũng đã có làm vài bài rồi. Và cô đọc cho tôi nghe bài thơ “Vườn xưa”. Tôi thấy bài ấy rất được, nên thuận để cô hợp tác.

Chỉ mấy ngày, cô đã đem lại một số bài khiến tôi không khỏi ngạc nhiên về sự mẫn tiệp đó. Tiện đây tôi tưởng cũng nên tiết lộ để bạn đọc rõ lối sáng tác thơ khá đặc biệt của tác giả Bức tranh quê. Nhà thơ này không sáng tác như phần đông thi sĩ khác. Khi một đề tài nảy ra trong trí, Anh Thơ phải ngồi vào bàn, trải giấy ra trước mặt, tay cầm bút rồi viết viết xóa!...thì ý thơ mới ra, lời thơ mới tới. Nghĩa là cô làm thơ như người ta viết văn. Với Anh Thơ, không có chuyện “xuất khẩu thành thi”! Nhưng cũng không cần phải chờ đợi cảm hứng.

Với lối làm việc này, tác giả lại chịu khó thì tưởng sự sáng tác mau lẹ của cô cũng không lạ vậy.

Vì thế, tháng 11 năm đó (năm 1941-NV) thi phẩm Xưa đã in xong và bắt đầu phát hành”.

Trong tập Xưa có 15 bài của Bàng Bá Lân và 10 bài của Anh Thơ (mà nhà thơ làm xong trong có mấy ngày), qua mảng ký ức này, ta thấy Anh Thơ không đợi cảm hứng. Khi làm thơ phải viết ra giấy và viết rất nhanh. Trong khi Bàng Bá Lân phải chờ cảm hứng, nhẩm trong trí cho đến khi hoàn thành mới viết ra giấy và viết rất lâu.

Dưới đây thử so sánh bài thơ Trưa hè của Bàng Bá Lân với bài thơ Trưa hè của Anh Thơ, để thấy được sự khác nhau giữa hai phong cách thơ:

Anh Thơ: Các bà già đưa võng hát, thiu thiu

Bàng Bá Lân: Quán cũ nằm lười trong sóng nắng

Bà hàng thưa khách ngủ thiu thiu

Anh Thơ: Hoa lựu nở đầy một vườn đỏ nắng

Bàng Bá Lân: Cành thưa, nắng tưới chim không đứng

Quả chín bâng khuâng rụng trước hè

Anh Thơ: Gió nồm nam lộng thổi cánh diều xa

Bàng Bá Lân: Đứng lặng trong mây một cánh diều

Anh Thơ: Nhưng thỉnh thoảng tiếng nhạc đồng buồn tẻ

Của vài người cưỡi ngựa đến xua ngay

Bàng Bá Lân: Nhạc ngựa đường xa rắc tiếng đồng

Anh Thơ: Những đĩ con ngồi buồn lê bắt chấy

Bên đàn ruồi rạc nắng hết hơi kêu

Bàng Bá Lân: Ve ve rung cánh ruồi say nắng

Vài cô về chợ buông quang thúng

Sửa lại vành khăn dưới bóng tre.

(còn tiếp)

TeacherABC
07-08-2009, 02:26 PM
Pha Lê ơi, bài viết chọn màu chữ đỏ đọc nhức mắt quá em à!

phale
07-08-2009, 02:28 PM
Bàng Bá Lân (tiếp theo và hết)
Hòai Anh

Ta thấy:

- Cái nhìn của Anh Thơ thường là hướng nôi

- Cái nhìn của Bàng Bá Lân thường là hướng ngoại

- Cảnh của Anh Thơ được nhìn bằng quan sát tinh tế

- Cảnh của Bàng Bá Lân thường vương một chút hồn

- Anh Thơ thuộc trường phải tả chân

- Bàng Bá Lân thuộc trường phái lãng mạn

- Cách viết của Anh Thơ trẻ trung, ngộ nghĩnh (Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa)

- Cách viết của Bàng Bá Lân chín chắn, già dặn (Nằm mát đàn trâu ngẫm nghĩ nhai).

- Anh Thơ viết theo kiểu thơ Pháp, chú trọng đến ngữ pháp.

- Bàng Bá Lân viết theo kiểu thơ cổ, hàm súc, kín đáo.

- Thơ Anh Thơ thường kết đột ngột, như chấm dứt một cảnh điện ảnh.

- Thơ của Bàng Bá Lân thường có những câu kết bâng khuâng, gợi cảm, như trong bài “Trưa hè”:

Bài thơ hết mà vẫn để lại dư âm man mác, có sức lay động tâm hồn người. Ở phương diện này, Bàng Bá Lân có chỗ gần gũi với Đoàn Văn Cừ, như trong bài Đêm hè, Đoàn Văn Cừ viết:

Thời gian dừng bước trên đồng vắng
Lá ngập ngừng sa nhẹ dưới ao
Như mơ đường khói lên trời nắng
Trường học làng kia tiếng trống vào.
Tiếng ốc trên chòi rúc thiết tha
Gió lay cót két rặng tre già
Sao trời từng chiếc rơi thành lệ
Sương khói bên đồng ủ bóng mơ.
Gió bỗng thổi ào, mây thấp tối
Buồm căng cuốn rách, nước trôi nhanh.
Trên đường cát bụi vàng theo gió
Nón mới cô kia lật nửa vành.
Ếch gọi nhau hoài tự mấy ao,
Trên bờ cây hoảng hốt lao xao.
Đò ngang vội vã chèo vô bến,
Lớp lớp tràn sông đợt sóng rào
Buồn rơi, trơ lại cột tre gầy,
Loang loáng chân trời chớp xé mây
Chim lẻ vội vàng bay nhớn nhác,
Mưa gieo nặng hạt xuống sông đầy.

Bài Mưa sông của Bàng Bá Lân cũng có được sự nhuần nhuyễn, cô đọng như vậy:

Nếu bài thơ Cổng làng đã mở ra cả một khung trời cao rộng thì đến bài Đêm ở làng, tác giả đã khép lại cái khung trời ấy:

Chùa xa chuông khóc ngày tàn
Chiều như muôn dải lụa vàng thướt tha
Lưng trâu mục tử vang ca
Lời thơ tự mấy đời qua lưu truyền
Vừa nghe tắt giọng êm đềm
Ngọn tre treo mảnh trăng liềm mới lên
Mấy cô hàng xén về đêm
Dưới cây đòn gánh cong mềm bước mau.
Làng tre cổng kín từ lâu
Trong sương chó sủa bớt mau. Im dần…
Trời khuya trăng thức tần ngần
Lòng tơ bao gái cũng gần như trăng.

Sau đó, có lẽ do ảnh hưởng thời cuộc, Bàng Bá Lân đã chuyển sang khuynh hướng tả thực, gần với Đoàn Văn Cừ, như trong bài Mùa gặt:

Trời tang tảng. Sương đào bay lớp lớp,
Cánh đồng quê mờ ngợp khói sương mơ,
Từ cổng làng, từng bọn kéo nhau ra,
Tiếng quang cặp, đòn cân va lách cách.
Họ vui vẻ đi nhanh trên đường đất,
Rồi tạt ngang tản mát khắp đồng quê.
Họ dừng chân bên ruộng ướt sương khuya,
Lúa rạp rạp ngả theo chiều gió thổi.
Thợ đàn ông xắn quần lên quá gối,
Thợ đàn bà cao váy xếnh hai bên
Để lộ ra những cặp bắp chân đen.

***

Rồi hơ hải người liềm xô xuống ruộng
Lúa thức giấc xạc xào trong hỗn độn,
Lúa run run lìa cuống ngã trên tay…
Lũ cào cào, châu chấu sợ tung bay,
Nhưng chớp mắt lại nặng nề rơi xuống
Liềm hái gặt. Lúa thi nhau lìa cuống
Nằm ngổn ngang trên ruộng trở màu đen.
Phía trời đông quạt lửa rộng xòe lên,
Cánh đồng bỗng rực tươi màu đỏ ối.
Sương mỏng mỏng nhẹ tan như làn khói,
Lúa thơm thơm rơm mới cũng thơm thơm
Không khí thơm theo gió chạy rập rờn
Làm gợn gợn sóng vàng trên biển lúa…

Trong bài này có những câu phảng phất thơ Đoàn Văn Cừ.

Bàng Bá Lân:

Trời tang tảng. Sương đào bay lớp lớp

Đoàn Văn Cừ:

Ngày ửng hồng sau màn sương gấm mỏng

Bàng Bá Lân:

Họ vui vẻ đi nhanh trên đường đất

Đoàn Văn Cừ:

Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc

Bàng Bá Lân:

Cánh đồng bỗng rực tươi màu đỏ ối
Sương mỏng mỏng nhẹ tan như làn khói

Đoàn Văn Cừ:

Sương trắng rỏ đầu cành như giọt sữa
Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa..

Bàng Bá Lân:

Chùa đâu đó rỏ hồi chuông lanh lảnh

Đoàn Văn Cừ:

Khi chuông tối bên chùa văng vẳng đánh

Ta thấy lời thơ của Bàng Bá Lân thật thà, vụng về hơn Đoàn Văn Cừ nhưng lại thể hiện được những khía cạnh thôn quê mà Đoàn Văn Cừ trước đây chưa nhìn thấy, đặc biệt là chủ đề lao động sản xuất.

Cảnh người kéo cày thay trâu cũng được Bàng Bá Lân phản ảnh trong bài Người trâu làm ở Đôn Thư năm 1945:

Trong thửa ruộng chân đê tràn ngập nước
Đôi bóng người đang chậm bước, đi đi
Người đàn ông cúi rạp bước lầm lì
Người vợ cố đẩy bừa theo sát gót
Họ là những nông phu nghèo bậc chót
Không có trâu nên người phải làm… trâu
Họ bừa ngầm một thửa ruộng chiêm sâu
Nước đến bụng ôi rét càng thêm rét.
Áo rách tướp hở ra từng miếng thịt
Tím bầm đen trong giá lạnh căm căm
Hì hục làm thỉnh thoảng lại dừng chân
Véo và ném lên mặt đường từng vốc
Nhát trông ngỡ là nắm bùn hay đất
Nhìn lại xem! Ồ đống đỉa đen sì,
Ta rùng mình quay mặt bước chân đi
Lòng tê tái một mối sầu u ám.

Đến bài thơ Đói tả cảnh đói năm 1945, với những chi tiết đặc tả trần trụi, gợi nhớ đến những tấm ảnh thời sự có giá trị lịch sử của nhà nhiếp ảnh Võ An Ninh cũng về đề tài này, nhưng về giá trị nghệ thuật thì còn phải bàn, mặc dầu Bàng Bá Lân cũng là một nhà nhiếp ảnh từng được giải thưởng quốc tế:.

Đói tự Bắc Giang đói từ Hà Nội
Đói ở Thái Bình đói tới Gia Lâm
Khắp đường xa những xác đói rên nằm
Trong nắng lửa, trong bụi lầm co quắp
Giữa đống trẻ chỉ còn đôi hố mắt
Đọng chút hồn sắp tắt của thây ma
Những cánh tay gầy quờ quạng khua khua
Như muốn bắt những gì hư ảnh
Dưới mái tóc rối bù và kết dính
Một làn da đen sạm bọc da đầu
Răng nhe ra như những chiếc đầu lâu
Má hóp lại răng hằn sâu gớm ghiếc…

Sau khi di cư vào Nam, năm 1956, Bàng Bá Lân làm bài thơ Đã hai năm rồi xa quê hương gợi nhớ đến những cái Tết miền Bắc năm xưa, đây cũng là một “Thương nhớ mười hai” trong thơ:

Đã hai Xuân rồi xa quê hương
Ngồi trông về Bắc buồn vương vương
Hoa đào còn đỏ
Hoa cúc có vàng?
Hoa Xuân có phô màu tuyết
Bàn thờ còn ngát trầm hương
Gió khuya heo hút phố phường
Có ai đi lễ trong sương lạnh lùng?
Những bàn tay mịn như nhung
Có vịn cành tơ hái lộc?
Những bàn tay già
Còn lay ống thẻ đầu năm?
Và ở miền quê yêu dấu
Đình chùa miếu mạo ra sao?
Hội hè nô nức xôn xao
Cây đu còn dải yếm đào đùa bay?
Những chiếc khăn vuông mỏ quạ
Còn ôm ấp má hây hây
Những cặp môi hồng tươi nở
Còn thơm, còn thắm trầu cay?

Sống trong cảnh phồn hoa đô hội ở miền Nam, Bàng Bá Lân vẫn nhớ về tiếng võng đưa ở quê nhà miền Bắc:

Tiếng võng đưa
Cót ca cót két
Đêm dài mưa rét
Mẹ ru con mơ màng…
Dân tộc Việt Nam
Lớn trong tiếng võng
Già trong lời ru
Êm đềm thay tiếng võng đưa
Nhịp thơ
Dân tộc
Mơ màng ta nghe tiếng khóc
Của thời măng sữa xa xôi
Ạ ơi ơi…
Ạ ơi ơi…
Cót ca cót két
Muôn đời
Nhịp thở
Và đây những vần thơ
Nhịp theo tiếng võng đung đưa
Nhịp theo lời ân ái
Tình quê vời vợi
Hồn dân tộc mang mang
Bao giờ nối lại giang san
Mà nghe tiếng võng mơ màng đâu đây

Trong ngày “nối lại giang san” sau 30 – 4 – 1975, tôi đã gặp Bàng Bá Lân ở nhà chị Anh Thơ tại đường Thiệu Trị thành phố Hồ Chí Minh và trò chuyện nhiều với ông về quê hương Bình Lục, anh em họ hàng ông và bạn bè văn nghệ của ông ở miền Bắc. Tuổi già, để đoàn tụ gia đình ông xuất cảnh sang Mỹ, và qua đời năm 1989 nhưng trước sau ông vẫn một lòng trung thành với quê hương, đất nước, như bông sen “gần bùn vẫn chẳng hôi tanh mùi bùn”.

Ở đây không chỉ là vấn đề về nghệ thuật thơ mà trước hết là ở nhân cách của nhà thơ. Trong bài Nghịch lý của việc nhận dạng một người Mỹ, John Kinnaid đã viết: “Thơ Whitman cho thấy rằng những hoạt động của trí tưởng tượng của một nhà thơ cũng phải đi liền với ý chí “sống” và hơn nữa cũng tùy thuộc ở sức sống của nhà thơ. Và cái nhân cách của nhà thơ thoát ra từ âm điệu trong câu thơ không phải là cái mặt nạ giả tạo của mộng tưởng do trí tưởng tượng của nghệ thuật, nhưng là một tiếng nói “không thể tách rời khỏi nhân cách của nhà thơ trong cuộc sống thực tại, mặc dầu tiếng nói đó không có liên quan gì đến cuộc sống thực tại. Và cái ý nghĩa chỉ tiến tới một nhân cách như vậy không phải như nhiều người nghĩ chỉ giới hạn trong trạng thái tinh thần lãng mạn của Whitman mà còn là một yếu tố tối cần thiết cho tất cả các nhà thơ khác trong thế giới hiện đại”.

Lời nhắc nhở của một nhà văn Mỹ có thể gợi rất nhiều cho chúng ta trong việc đánh giá các nhà văn sống ở miền Nam sau năm 1954, để có một cái nhìn chân xác thấu lý đạt tình, tránh khỏi những cách vùi dập nghiêt ngã hay tâng bốc bốc đồng, vì như Whitman đã nhấn mạnh cuốn sách của ông thực ra không phải chỉ là một cuốn sách: “Đọc nó tức là đọc một người”.

Nguồn: Văn chương hồn Việt

phale
07-08-2009, 02:29 PM
Pha Lê ơi, bài viết chọn màu chữ đỏ đọc nhức mắt quá em à!
Anh reply nhanh thế... em thao tác nhầm...:o:nguong::nguong:

phale
08-08-2009, 08:41 AM
Anh Thơ


Các bút danh khác: Tuyết Anh, Hồng Minh

(1918-2005)

Họ và tên khai sinh: Vương Kiều Ân. Sinh ngày 25 tháng 01 năm 1918, tại thị trấn Ninh Giang, tỉnh Hải Dương.

Quê quán: Thị xã Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang. Mất ngày 14 tháng 3 năm 2005, tại Hà Nội.

Tác phẩm chính đã xuất bản: Bức tranh quê (thơ, 1941); Xưa (thơ, in chung, 1942); Răng đen (1944); Hương xuân (thơ, in chung, 1944); Kể chuyện Vũ Lăng (truyện thơ, 1957); Theo cánh chim câu (thơ, 1960); Đảo ngọc (thơ, 1964); Hoa dứa trắng (thơ, 1967); Mùa xuân màu xanh (thơ, 1974); Quê chồng (thơ, 1979); Tiếng chim tu hú (hồi ký, 1995); Lệ sương (thơ, 1995); Cuối mùa hoa (thơ, 2000); Từ bến sông Thương (hồi ký, 2002).

Giải thưởng văn học: Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật, đợt I, năm 2001.

Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật, 2007.


Bến đò đêm trăng

Mây tản mát ven trời trôi đón gió
Sao mơ hồ thưa bóng lẩn trong sương.
Sông lặng chảy một nguồn trăng sáng tỏ.
Bóng cô Hằng lơ lửng đứng soi gương.

Trên bến vắng chòm si ôm bực đá,
Bờ đê cao không một bóng in người,
Gió se sẽ bước vào thăm khóm lá
Trước quán hàng vắng lặng bóng trăng soị

Ngoài sông nước đó đây về chở gió
Thuyền lênh đênh trong lớp khói sương mù
Ngồi mơ mộng đầu thuyền cô lái nhỏ
Khua trăng vàng trong nhịp hát đò đưa

Anh Thơ

phale
04-10-2009, 01:42 PM
Nguyễn Bính, thi sĩ giang hồ
Kỳ 1: Chú bé si tình Nguyễn Bính

Nguyễn Bính thuở nhỏ tên thật là Nguyễn Trọng Bính. Khi bước chân vào làng văn làng báo, ông lấy tên mình bỏ đi chữ lót thành ra bút danh Nguyễn Bính. Ông tuổi Mậu Ngọ, sinh năm 1918. Quê nội và cũng là nơi sinh của ông là xóm Trạm, thôn Thiện Vịnh, xã Đồng Đội, nay là xã Cộng Hòa, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Lên ba tháng tuổi, ông mồ côi mẹ. Sau đó, cha ông đi thêm bước nữa. Vì thế về sau khi gia cảnh rơi vào khó khăn thì ba anh em ông được bên ngoại ở thôn Vân Tập cùng xã Đồng Đội với quê nội đón về nuôi.

Nguyễn Bính ở với người cậu ruột là ông Bùi Trình Khiêm, một nhà nho có tiếng, từng tham gia phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, là thầy dạy học chữ Nho của ông Trần Huy Liệu. Nhờ người cậu giỏi chữ Nho này mà ông có điều kiện tiếp xúc sớm với chữ nghĩa và nghệ thuật thơ phú.

Năm mười ba tuổi, Nguyễn Bính làm mọi người kinh ngạc về tài thơ của mình. Năm đó, vào dịp tháng ba âm lịch, hội Phủ Giầy tỉnh Nam Định quê ông có tổ chức một cuộc thi thơ. Đề thi là tả cảnh chọi gà trong ngày hội. Trong lúc mọi người đang loay hoay làm bài, thời gian cũng chỉ mới hết một nửa, người ta đã thấy một cậu bé con bước vào chỗ ban giám khảo đang ngồi để nộp bài. Đó chính là Nguyễn Bính. Bài thi của cậu bé là một bài thơ dài hơn ba trang giấy học trò. Sau khi xem xét cân nhắc, ban giám khảo quyết định chấm ngay giải nhất cho bài thơ. Và khi ban tổ chức dùng loa để đọc to bài thơ lên giữa sân đình cho mọi người cùng thưởng thức thì hàng ngàn người đang dự hội thơ vỗ tay không ngớt.

Có một điểm đặc biệt liên quan đến sự hình thành phong cách thơ Nguyễn Bính về sau trong câu chuyện thú vị này. Trong bài thơ tả cảnh chọi gà đó, ngoài sự độc đáo về mặt nghệ thuật thì chỗ làm tất cả mọi người, từ ban giám khảo đến người tham dự phải tâm phục khẩu phục là hai câu kết. Tác giả đã lấy hai câu ca dao "Khôn ngoan đá đáp người ngoài/Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau" để đưa vào bài thơ tả cảnh chọi gà một cách thật thú vị và đầy ý nghĩa.

Tiếng đồn về một chú bé con thần đồng thơ có lẽ từ đó đã lan nhanh. Và những lời thêu dệt huyền hoặc cũng phát sinh theo khiến nảy sinh nhiều chuyện bất ngờ. Ban đầu là một số người tìm đến để nhờ Nguyễn Bính gà thơ cho người hát trong những cuộc thi hát đối đáp. Nguyễn Bính vốn có tài ứng tác tức thì nên thường bên nào được ông giúp sức thì y như rằng bên đó sẽ thắng cuộc. Vì thế dần dần lòng ngưỡng mộ của mọi người lên cao đến tột đỉnh. Và Nguyễn Bính trở thành một người "cõi trên". Một số người mê tín tin rằng thơ của Nguyễn Bính làm ra là thơ tiên, được giáng vào cho một cậu bé con chứ không phải là thơ của người bình thường. Vì thế nhiều người tìm đến Nguyễn Bính để xin thơ. Những đám dựng vợ gả chồng, trắc trở tình duyên hay làm ăn xui xẻo... đều đến nhờ "cậu" cho thơ tiên. Và tùy theo hoàn cảnh mà Nguyễn Bính cho thơ.

Lần nọ, một gia đình nông dân nghèo có cô con gái vừa được đám nhà giàu đến dạm hỏi. Ngặt nỗi, cô gái trước đó cũng đã có người thương ở làng. Gia đình phân vân không biết quyết định thế nào, bàn nhau tìm đến cậu. Nghe trình bày xong, Nguyễn Bính liền cho ngay một quẻ thơ có đoạn như sau: "Của dẫu nhiều nhưng vẫn chẳng nên/Phù vân, giả dối chẳng lâu bền/Tình em đâu phải trao thiên hạ/Dành để trai làng mới đẹp duyên". Lời thơ tiên đã truyền dạy như vậy, gia đình đành phải chối đám nhà giàu xứ khác để chọn anh trai làng cho con gái.

Độc đáo nhất là có một anh chàng hành nghề đạo chích cũng tìm đến xin thơ tiên và được Nguyễn Bính "giáng" cho mấy câu thơ và từ đó bỏ luôn nghề ăn trộm.

Một người quen của Nguyễn Bính có kể lại câu chuyện thú vị sau đây nữa. Đó là câu chuyện si tình của Nguyễn Bính năm ông mười bốn tuổi. Chuyện kể rằng, tháng ba năm ấy, Nguyễn Bính đi dự hội Phủ Giầy. Đó là lễ hội mà ông mê từ thuở bé. Một buổi đang ngồi xem hầu bóng, ông thoáng thấy một cô gái trạc tuổi mình đi ngang qua. Cô bé người cao dong dỏng mặc áo cánh sen thắt lưng hoa lý. Cô đi cùng với một người dáng chừng là mẹ. Nguyễn Bính có cảm giác lạ lùng như là cô bé vừa thoát ra từ bức tranh Tố Nữ. Ông vội vàng chạy theo. Khi nhìn được khuôn mặt cô bé, ông ngơ ngẩn như người mất hồn. Cả buổi hôm ấy, ông cứ đi theo hai mẹ con họ, lạy cùng lạy, khấn cùng khấn.

Rồi trong nhiều ngày sau nữa, ông luôn luôn đi theo bên họ. Đến ngày thứ tư, ông lén dúi được vào tay cô bé mảnh giấy có mấy câu thơ như sau: "Em ở cõi trần hay cõi tiên?/Phủ đền nhang khói nức hương em/Xin đi chầm chậm cho theo với/Lộc Thánh dâng người một trái tim". Cô gái nhanh nhẹn cầm lấy mảnh giấy nhưng ngó lơ đi nơi khác. Tuy nhiên, chỉ cần vậy là ông đã tràn ngập sung sướng trong lòng mình rồi.

Sau đó cô bé theo mẹ về quê và ông tìm cách đi theo cho đến tận nơi ở của nàng. Tuy nhiên có lẽ mối tình đầu chỉ đẩy đưa tới đó. Bởi chừng ba tháng sau thì gia đình cô có việc gì đó phải đột ngột bán nhà chuyển đi nơi khác, thế là người tiên biến mất. Hình ảnh cô bé trẩy hội Phủ Giầy đầu chít khăn nhung thả tóc đuôi gà từ đó luôn lẩn quất trong tâm hồn ông.

(còn tiếp)

Trần Đình Thu
(Theo Thanh Niên)

phale
04-10-2009, 01:48 PM
Kỳ 2: Khởi bước giang hồ

Mùa xuân năm Quý Dậu (1933), Nguyễn Bính rời quê ngoại thôn Vân, nơi đã trải qua quãng đời thơ ấu của mình để bắt đầu dấn thân vào cuộc đời phiêu bạt. Lúc này, Nguyễn Bính mới chỉ 15 tuổi. Ông đến Hà Nội, tới phố Hàng Bồ, gia nhập vào đội quân bán báo lẻ. Nhưng con người nhà quê của Nguyễn Bính khó lòng tồn tại được với cuộc sống hè phố, vì vậy ông bỏ Hà Nội tìm đến Hà Đông - nơi người anh ruột Nguyễn Mạnh Phác (tức nhà biên kịch Trúc Đường sau này) đang dạy học - tá túc. Một thời gian sau, Nguyễn Bính cùng với anh trở về Hà Nội. Rồi ông lên Phú Thọ, Thái Nguyên, đến tận vùng Lạng Sơn biên ải xa xôi. Lấy Hà Nội làm tâm điểm, ông liên tục thực hiện những chuyến đi như thế. Một phần là kiếm kế sinh nhai nhưng phần khác cũng là để thỏa mãn chí phiêu bồng.

Trong thời gian này, ông sáng tác nhiều bài thơ mà trong đó một số bài lưu lại rất rõ dấu ấn của những chuyến đi. Đặc biệt, có một bài thơ bốn câu mà một thời trong sách giáo khoa chương trình phổ thông trung học người ta xếp nhầm nó vào ca dao. Đó là bài thơ Xa cách, được Nguyễn Bính sáng tác vào năm 1938 tại Phú Thọ:

Nhà em cách bốn quả đồi
Cách ba ngọn suối cách đôi cánh rừng
Nhà em xa cách quá chừng
Em van anh đấy, anh đừng yêu em

Đây là bài thơ đặc biệt nhất của Nguyễn Bính. Chất dân gian trong thơ nhiều đến nỗi hầu như nó chính là một bài ca dao. Trong Thi nhân Việt Nam Hoài Thanh có nhận xét: "Giá mà Nguyễn Bính sinh ra thời trước, tôi chắc người đã làm những câu ca dao mà dân quê vẫn hát quanh năm và những tác phẩm của người, bây giờ đã có vô số nhà thông thái nghiên cứu". Có lẽ thời đó, Hoài Thanh không để ý đến những câu thơ này của Nguyễn Bính nên mới giả định như vậy mà thôi.

Quãng thời gian lưu lạc trên những vùng đồi núi sơn cước có lẽ làm ông thỏa chí tang bồng lắm, dù rằng đôi lúc cuộc sống cũng khó khăn. Có tài liệu cho biết, trong thời gian này có lúc ông đi làm nghề gõ đầu trẻ để kiếm sống. Nhưng ta hãy đọc mấy câu thơ dưới đây của ông:

Buổi chiều uống rượu làm thơ
Buổi trưa đi đốt lá khô trên đồi
Lá khô là lá của trời
Thơ tôi là để riêng tôi tặng nàng
(Thơ tôi)

Đọc mấy câu thơ này, ta hiểu được sự phóng khoáng và lãng mạn đến vô cùng ở Nguyễn Bính. Ta thấy trong thơ ca, có nhiều người vẫn làm được những bài thơ hay nhưng nếu nói rằng để có một cuộc đời đúng chất thi sĩ như Nguyễn Bính thì có lẽ không mấy ai đạt được.

Tuy vậy ở nơi đất khách quê người, dù sao buồn vẫn nhiều hơn vui. Có những đêm giao thừa lạnh lẽo hiu quạnh ở miền biên ải, ông lại hoài vọng:

Có phải đêm nay trời mới tối
Đêm nào trời cũng tối như đêm
Ải xa không pháo giao thừa nổ
Mưa rét tơi bời mưa rét thêm
Vườn cũ hoa mai chắc nở rồi
Cành mai ai gửi đến xa xôi
Mẹ ơi! Một sớm thăm hoa rụng
Nhặt giữ giùm con dăm cánh thôi
(Tết biên thùy)

Ta thấy một điểm dễ nhận ra ở con người Nguyễn Bính: thích phiêu bạt giang hồ nhưng lại luôn luôn hoài cố hương, hay buồn tủi nhớ thương những ngày tháng đã qua. Chính vì vậy mà trong thơ ông thường hiện hữu hình ảnh quê nhà. Trong bài thơ Quán trọ có lẽ cũng được ông sáng tác trong thời kỳ này, Nguyễn Bính viết:

Từ độ phiêu linh mãi đến giờ
Xuân dàn vào tết bốn năm thưa
Bốn năm biết mấy tao gian khổ
Thôi để xuân sau trở lại nhà
Nhưng rồi tết ấy tết sau qua
Lần lữa ai chưa trở lại nhà
Quán trọ xuân này hoa lại nở
Lại ngồi xem tết, tết người ta

Một điều đáng chú ý, Nguyễn Bính nghiện rượu rất sớm. Hay là các thi nhân thời đó thường nghiện rượu sớm? Có lẽ là thế. Vào năm 1940, lúc này ông mới 22 tuổi tròn nhưng có vẻ đã rất sành rượu. Trong bài thơ Ga đơn ga kép làm tại ga Kép, Nguyễn Bính có những câu thơ như sau:

Ở đây chiều xuống rất mau
Bình minh lên sớm, tôi sầu bơ vơ
Rượu say từ sáng đến giờ
Nhớ người, tôi nhớ mãi từ hôm lên

Quả thật là một người thường hay say rượu thông tầm mới có cái cảm giác "sầu bơ vơ" khi uống rượu từ sáng sớm say đến chiều tối, tỉnh giấc nhìn ra bên ngoài thấy hoàng hôn sắp đổ xuống.

Ta hãy đọc thêm một khổ thơ buồn nữa của Nguyễn Bính. Đó là một khổ thơ nằm trong bài Một trời quan tái, sáng tác ở Lạng Sơn năm 1940:

Chiều lại buồn rồi em vẫn xa
Lá rừng thu đổ nắng sông tà
Chênh chênh quán rượu mờ sương khói
Váng vất thôn sâu quạnh tiếng gà

Đây là những câu thơ tả cảnh đường rừng thật đẹp. Hóa ra là Nguyễn Bính có hẳn một mảng thơ đường rừng mà lâu nay ta không để ý đến. Ta hãy đọc bài thơ Phố chợ đường rừng Nguyễn Bính sáng tác vào năm 1940 tại Kép:

Đồi lau gió lạnh phất cờ
Tán bàng đã rụng đôi tờ huyết thư
Sương buông, chiều xuống lững lờ
Thịt rừng nướng ngậy, rượu vò bốc men
Điếm canh tuần tráng thay phiên
Bước đi nhập nhoạng nâu chen lẫn chàm

Quả là không thể có một họa sĩ tài ba nào vẽ được bức tranh phố rừng sinh động hơn những câu thơ này. So sánh những lá bàng cuối thu như những tờ "huyết thư" hay là tả cái cảnh những tuần điếm lẫn vào trong đêm tối chập choạng "nâu chen lẫn chàm" thì thật là tuyệt diệu!

Nhưng cái tài tả cảnh như viết tiểu thuyết của Nguyễn Bính ở những câu thơ tiếp theo của bài thơ trên mới thật sự làm ta kinh ngạc:

Giường tre le lói ánh đèn
Đôi ba mặt lạ chia tiền nhỏ to
Đôi ba người bạn giang hồ
Tóc bồng cỏ dại bình thơ nhớ nhà
Chập chờn bóng quỷ hình ma
Khoanh tay chủ quán nhìn ra đường mòn

Thật là những câu thơ tả cảnh quá độc đáo!

(Còn tiếp)

Trần Đình Thu
(Theo Thanh Niên)

phale
06-10-2009, 11:09 AM
Kỳ 3: Giữa phố phường Hà Nội

Hà Nội là nơi đầu tiên mà Nguyễn Bính đặt chân đến khi rời bỏ làng quê để cất bước giang hồ. Tuy nhiên, ông sống ở Hà Nội không nhiều lắm. Bởi ông luôn xê dịch qua nhiều địa phương khác nhau.

Tính từ năm 1936 đến 1945 là gần mười năm, nhưng có lẽ tổng cộng thời gian ông sống ngay tại Hà Nội chỉ chừng vài năm. Nhưng đó là khoảng thời gian quan trọng nhất để ông bước chân vào sự nghiệp văn chương. Một điều chắc chắn rằng chỉ từ khi rời Hà Đông về Hà Nội, vào khoảng năm 1935 hoặc 1936, Nguyễn Bính mới bắt tay vào sáng tác một cách chuyên nghiệp.

Ở Hà Nội, thoạt đầu Nguyễn Bính chơi thân với Thâm Tâm, Trần Huyền Trân, làm thành một nhóm thơ trẻ, được bạn bè mệnh danh là xóm thơ áo bào gốc liễu. Về sau, Nguyễn Bính chơi thêm với Tô Hoài, Vũ Hoàng Chương... Đó là những cây bút có tiếng tăm trong làng văn. Còn những bạn bè văn chương báo chí khác thì nhiều lắm. Hà Nội có, tỉnh lẻ có.

Qua một số tài liệu để lại, ta thấy rằng dường như những bài thơ hay về làng quê của Nguyễn Bính đều được viết ra trong khoảng thời gian ông sống ngay tại Hà Nội. Khoảng năm 1935 hoặc 1936, cùng với Trúc Đường đặt chân đến Hà Nội, Nguyễn Bính bắt đầu sáng tác thơ về làng quê. Đề tài làng quê trước hết là thế mạnh của Nguyễn Bính, sau nữa là đề tài mà độc giả các báo, vốn hầu hết là người thành thị, khi đó vẫn rất thích đọc. Mặt khác, một người sinh ra ở làng quê, lớn lên ở làng quê, cuộc sống thị thành vẫn còn quá xa lạ như Nguyễn Bính, thì lấy đề tài làng quê để sáng tác sẽ là thuận lợi hơn so với đề tài khác. Những bài thơ như Mưa xuân, Chân quê, Lòng mẹ, Thời trước... đều được ra đời trong hoàn cảnh như vậy.

Ta hãy đọc lại vài câu thơ độc đáo viết về làng quê của Nguyễn Bính trong giai đoạn này:

Xóm Tây bà lão lưng còng
Có hai cô gái lấy chồng cả hai
Gió thu thở ngắn than dài
Bà đem áo rét phơi ngoài cửa thưa
(Không đề - 1938)

Lợn không nuôi, đặc ao bèo
Giầu không dây chẳng buồn leo vào giàn
Giếng thơi mưa ngập nước tràn
Ba gian đầy cả ba gian nắng chiều
(Qua nhà - 1936)

Đấy là những câu thơ đặc tả về làng quê mà khó có người thứ hai nào sáng tác được hay hơn thế. Như là những bức tranh làng Hồ vẽ bằng thơ.

Khi Nguyễn Bính bước chân vào văn đàn, vào khoảng năm 1936, thì cuộc cách mạng thơ mới khởi đầu từ năm 1932 đã đến hồi kết thúc. Lúc này, Nguyễn Bính chỉ việc ung dung thừa hưởng thành quả của cuộc cách mạng mà thôi. Tuy nhiên, ông lại có một công lao khác đối với cuộc cách mạng này. Đó là, bằng những câu thơ mang hơi thở làng quê của mình, Nguyễn Bính đã góp phần giữ cho cuộc cách mạng không đi quá xa đến mức trên văn đàn tràn ngập những câu thơ ảnh hưởng nặng nề thơ Pháp. Có người cho rằng, Nguyễn Bính đã ra một tuyên ngôn về thơ trong bài thơ Chân quê ngay trong năm 1936 khi ông viết những câu thơ sau đây:

Nói ra sợ mất lòng em
Van em em hãy giữ nguyên quê mùa
Như hôm em đi lễ chùa
Cứ ăn mặc thế cho vừa lòng anh
Hoa chanh nở giữa vườn chanh
Thầy u mình với chúng mình chân quê

Có thể Nguyễn Bính không nghĩ như thế nhưng vừa bước chân vào văn đàn mà đã thành công rực rỡ ngay là chính nhờ ông đã khai thác đề tài làng quê.

Nhưng rồi viết về làng quê mãi cũng có lúc cạn nguồn đề tài. Vả lại những năm 1939 trở về sau này, Nguyễn Bính đã dần quen thuộc với cuộc sống phố phường Hà Nội rồi. Vì vậy, ông đã bắt đầu lấy những đề tài thành thị để sáng tác. Ta đã thấy xuất hiện những câu thơ như thế này trong tập thơ Lỡ bước sang ngang, là tập thơ xuất bản đầu tiên của Nguyễn Bính vào năm 1940:

Hà Nội ba mươi sáu phố phường
Lòng chàng có để một tơ vương
Chàng qua chiều ấy qua chiều khác
Góp lại đường đi, vạn dặm đường
(Hà Nội ba mươi sáu phố phường)

Chiều về chầm chậm trong hiu quạnh
Tơ liễu theo nhau chảy xuống hồ
Tôi thấy quanh tôi và tất cả
Châu thành Hà Nội chít khăn xô
(Lòng người trinh nữ)

Những năm 1939 trở đi, đề tài sáng tác của Nguyễn Bính đã mở rộng ra rất nhiều. Và thật đáng ngạc nhiên, khi rời bỏ cây đa giếng nước của làng quê để viết về phố phường, sau một thời gian lúng túng, thơ ông lại vẫn hay như thường:

Nhà nàng ở gốc cây mai trắng
Trên xóm mai vàng dưới đế kinh
Có một buổi chiều qua lối ấy
Tôi về dệt mãi mộng ba sinh
(Người con gái ở lầu hoa)

Có những ngày đi rất nhẹ nhàng
Vườn tôi đầy cả gió xuân sang
Hai ba con bướm giang hồ đó
Đã trở về đây rũ phấn vàng
(Vườn xuân)

Vào lúc này, Nguyễn Bính không còn là một chàng trai ngơ ngác giữa phố phường Hà Nội như ngày nào vừa mới rời khỏi thôn Vân nữa. Nguyễn Bính đã biết hút thuốc phiện, uống rượu tây, đi hát ả đào. Có lần Nguyễn Bính cùng hai người bạn thân Tô Hoài, Vũ Hoàng Chương kéo nhau lên tàu lửa làm chuyến giang hồ suốt cả tuần lễ. Vũ Hoàng Chương khi đó đang làm xếp ga nhưng vẫn bỏ việc đi chơi. Ở Bắc Ninh, Vũ Hoàng Chương đưa cả bọn ghé nhà cô đào hát có tiếng tên là Tuyết Lành ở phố Niềm. Tối hát, ngày ăn bún ốc trừ cơm. Rong chơi ngày này qua ngày khác. Thú vui hát ả đào ngày ấy đã trở thành món ghiền khó bỏ đối với nhiều văn thi nhân, trong đó có Nguyễn Bính. Chính vì thế mà Nguyễn Bính có vài bài thơ khi đọc lên thấy ngờ ngợ vì nó không giống những bài thơ khác của ông về tiết tấu, về ngôn ngữ. Chẳng hạn như mấy câu thơ dưới đây nằm trong tập thơ Mây Tần, xuất bản năm 1942:

Đêm xuân này giấc mộng thế là tan
Tiệc đương vui lỡ đứt cả dây đàn
Tài với sắc, thôi thôi là lụy sạch
Một khúc trường ca men Lý Bạch
Mười bài khuê oán lệ Bằng Phi
(Trên cầu Chiết Liễu)

Đây chính là những câu thơ Nguyễn Bính sáng tác ra để cho các đào nương ngâm nga trong những hội hát ả đào ngày ấy chứ không phải là những bài thơ viết ra để đọc?

(Còn tiếp)

Trần Đình Thu

phale
06-10-2009, 11:13 AM
Kỳ 4: Mưa xuân và những sáng tác đầu tay

Từ 1936 đến 1940 là thời kỳ sáng tác sung mãn nhất của Nguyễn Bính. Phần lớn những bài thơ làng quê có giá trị đều được ông sáng tác trong thời kỳ này. Có hàng trăm bài thơ của ông được đăng báo. Năm 1940, Nguyễn Bính cho in thành sách hai tập thơ Lỡ bước sang ngang và Tâm hồn tôi. Đây là hai tập đầu tiên trong bảy tập thơ sáng tác trước năm 1945 của Nguyễn Bính.

Căn cứ theo những số liệu về ngày tháng ghi dưới các bài thơ thì những bài thơ sớm nhất của Nguyễn Bính được sáng tác vào năm 1936, lúc Nguyễn Bính mới 18 tuổi. Trong hai tập thơ đã nói trên, có rất nhiều bài thơ cùng đề năm sáng tác là 1936. Đó là các bài Mưa xuân, Lòng mẹ, Đêm cuối cùng, Nhớ, Qua nhà… Điều đặc biệt đáng quan tâm là tất cả những bài thơ sáng tác vào năm đầu tiên này đều là những bài thơ hay. Về sau có thể có những bài thơ không xứng tầm với Nguyễn Bính nhưng thời gian này thì không xảy ra tình trạng đó. Và trong số những bài thơ sớm nhất đó, bài Mưa xuân nằm trong tập Lỡ bước sang ngang được nhiều người xác nhận là bài thơ đầu tiên, tức tác phẩm đầu tay chính thức của Nguyễn Bính.

Toàn bộ Mưa xuân là một câu chuyện yêu đương hẹn hò vui buồn của trai gái đến tuổi lấy vợ gả chồng ở thôn quê. Cô con gái sống bằng nghề canh cửi phải lòng chàng trai làng bên. Họ đã vài lần nói chuyện với nhau. Một hôm có hội chèo về hát, cô con gái xin phép mẹ đi xem với mục đích để được gặp chàng trai. Trời tháng giêng mưa xuân bay phơi phới, xòe bàn tay thử trước mái hiên mưa rơi từng chấm lạnh ngắt. Thế nhưng cô gái vẫn náo nức đi. Đến hội hát, cô gái mải lặn lội đi tìm chàng trai mà không để ý gì đến chuyện hát hò. Nhưng tìm mãi, tìm mãi không thấy chàng đâu. Đêm ấy, trên đường về cô gái lầm lũi đi trong mưa. Cô nhớ lời chàng hẹn hôm trước, khi nào có đám hát sẽ sang xem và gặp nhau trò chuyện. Lời hẹn hò thật chắc chắn mà nay đã bay đi đâu mất rồi?

Một câu chuyện thơ hoàn toàn có thể kể lại được bằng văn xuôi một cách rõ ràng, có đầu có đuôi như vậy. Thậm chí có thể viết lại thành một truyện ngắn được. Đấy chính là một trong những đặc điểm nổi bật của nhiều tác phẩm thơ Nguyễn Bính: thơ có cốt truyện, có nhân vật, có cao trào, có kết thúc mà trong các phần khác chúng ta sẽ tìm hiểu kỹ hơn.

Bài thơ này không có nhân vật tôi. Hai nhân vật trong Mưa xuân là mẹ và em. Nguyễn Bính đã ký thác tâm sự của mình vào họ, để họ thay ông nói ra bằng lời những suy tư ngẫm nghĩ, những buồn vui cuộc đời... Nguyễn Đăng Điệp gọi đây là cách nói thác lời. Đây vốn là sở trường của các nhà tiểu thuyết, không hiểu vì sao Nguyễn Bính lại giỏi về khoa này? Có rất nhiều bài thơ Nguyễn Bính dùng cách nói thác lời tài tình như vậy.

Mưa xuân cho ta những câu thơ thật đẹp và đặc biệt thật chỉn chu. Hình như là những bài thơ đầu tiên này Nguyễn Bính phải viết đi viết lại nhiều lần lắm. Nghe nói vào thời gian này, Trúc Đường trực tiếp biên tập thơ cho Nguyễn Bính rất kỹ. Về sau này ta thấy nhiều câu thơ của Nguyễn Bính viết quá dễ dãi. Nhưng giờ đây ta hãy đọc vài câu thơ hay và chỉn chu của Mưa xuân. Chẳng hạn như bốn câu thơ đầu tiên:

Em là con gái trong khung cửi
Dệt lụa quanh năm với mẹ già
Lòng trẻ còn như cây lụa trắng
Mẹ già chưa bán chợ làng xa

Khổ thơ thật nhẹ nhàng và chân chất. Ta để ý thấy có một chỗ đặc biệt, là hai câu thơ so sánh cô gái với cây lụa trắng. Trong thơ Việt Nam dường như không có tác giả nào khác có kiểu so sánh như vậy. Đây chính là cách so sánh kiểu dân gian, nó cụ thể hóa những điều trừu tượng thành vật chất cụ thể: sự trẻ trung hồn nhiên của một cô gái so sánh với một cây lụa trắng mới dệt xong. Nguyễn Bính đã học tập từ các nghệ sĩ dân gian cách làm này và sau đó ông đã đẩy lên đến mức điêu luyện, đôi lúc vượt qua những người thầy dân gian của mình. Chẳng hạn như hai câu thơ "Hồn anh như hoa cỏ may/Một chiều cả gió bám đầy áo em".

Thơ Nguyễn Bính viết về xuân rất nhiều nhưng bài Mưa xuân này có một vẻ đẹp lung linh huyền diệu hơn tất cả. Đặc biệt nghệ thuật tả cảnh tài tình của Nguyễn Bính được vận dụng vào đây để tạo thành những câu thơ đẹp:

Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay
Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy

Diễn đạt mưa và hoa như thế thật là tài tình. Mưa phơi phới bay thì đúng là mưa xuân rồi. Những cơn mưa của sự đâm chồi nảy lộc, của sự hớn hở trong lòng người. Làm sao có thể tìm ra từ nào xuân hơn là phơi phới bay? Cũng như thế, hoa xoan thì lại lớp lớp rụng vơi đầy. Đọc câu thơ, ta hình dung rõ mồn một cảnh trên đường làng gió tung hoa lên từng trận mịt mù phủ kín không gian. Dường như là hoa nhiều lắm. Hoa từ đầu làng đến cuối ngõ. Chỉ thấy hoa chứ không thấy cảnh vật nữa. Làng quê qua ngòi bút tả cảnh của Nguyễn Bính hiện lên đẹp như là một bức tranh.

Một góc độ nào đấy, có thể so sánh Mưa xuân của Nguyễn Bính với Đây thôn Vỹ Dạ của Hàn Mặc Tử bởi sự toàn bích của nó. Nếu một số bài thơ hay khác của Nguyễn Bính, đôi lúc ta thấy tiếc trong một vài chỗ thì với Mưa xuân, ta cảm thấy thỏa mãn hoàn toàn. Ta không còn có thể khen chê vào đâu được nữa. Viên ngọc đầu tiên của người thợ chạm tài ba này không hề có một tỳ vết.

Trên một số báo Văn Nghệ trước đây, tác giả Nguyễn Xuân Nam lấy làm tiếc rằng ngày ấy Hoài Thanh không trích dẫn Mưa xuân vào Thi nhân Việt Nam. Đúng là như vậy thật. Tác giả Chu Văn Sơn cũng viết: "Nếu chọn bài Nguyễn Bính nhất, hẳn tôi sẽ chọn Mưa xuân. Tương tư cũng hay nhưng phần khéo không ít. Lỡ bước sang ngang réo rắt nhưng đã nghiêng nhiều về phần dễ dãi". Ý Chu Văn Sơn cho rằng Mưa xuân là một bài thơ thể hiện đúng chất ngòi bút đồng quê của Nguyễn Bính nhất. Nhận định này rất chính xác. Hiện nay trong chương trình văn học phổ thông, phần giới thiệu Nguyễn Bính có trích dẫn duy nhất một bài Tương tư, nói như Nguyễn Xuân Nam là ta thấy rất đáng tiếc vì Mưa xuân không được trích dẫn thêm vào. Ở đây cần nhấn mạnh, nếu vì lý do gì đó không thể trích dẫn thêm thơ Nguyễn Bính, thì ta nên thay bài Tương tư bằng bài Mưa xuân.

(Còn tiếp)

Trần Đình Thu

Tường Thụy
06-10-2009, 12:07 PM
Kỳ 4: Mưa xuân và những sáng tác đầu tay

................................
Trần Đình Thu

Bài viết hay quá. Nhận định của tác giả về bài Mưa xuân hoàn toàn chính xác (theo cảm nhận của TT). Trong nhiều cuộc bình thơ mini, TT vẫn khăng khăng Mưa xuân là bài thơ hay nhất của Nguyễn Bính. Chú em (cử nhân văn) thì cho rằng bài ấy hay nhưng không nhất, đó là bài thơ xinh xắn dễ thương.
TT muốn nêu thêm một ý nữa là Nguyễn Bính tả tâm lý cô gái cũng rất khéo. Bài thơ kể về 2 giai đoạn: trước khi đi hội và sau khi về, lặp đi lặp lại. Cũng cảnh ấy mà:

Khi đi: Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay
Khi về: Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay

Khi đi: Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy
Khi về: Hoa xoan đã nát dưới chân giày

Khi đi: Mẹ bảo thôn Đoài hát tối nay
Khi về: Mẹ bảo mùa xuân đã cạn ngày.

Khi đi: Mưa bụi nên em không ướt áo
Khi về: Áo mỏng che đầu mưa nặng hạt.

Khi đi: Thôn Đoài cách có một thôi đê
Khi về: Có ngắn gì đâu một dải đê.

Hình như người ta gọi đó là thủ pháp "đầu cuối tương ứng"
Trong bài thơ, TT thích nhất 4 câu tả tâm trạng người con gái quê mới biết yêu, đẹp và chính xác như rõ hết tâm can cô vậy:

Lòng thấy giăng tơ một mối tình
Em ngừng thoi lại giữa tay xinh
Hình như hai má em bừng đỏ
Có lẽ là em nghĩ đến anh.

Tác giả Trần Đình Thu muốn thêm bài Mưa xuân vào chương trình văn học phổ thông, nếu không được thì bài Tương tư phải nhường chỗ. TT cũng đồng ý như vậy. Tuy nhiên TT thấy còn tiếc hơn là trong 100 bài thơ hay nhất thế kỷ 20, người ta cũng bỏ qua bài này mà chọn bài “Những bóng người trên sân ga” vào cái suất ít ỏi 1 bài cho mỗi tác giả được bầu chọn. Hẳn nếu Nguyễn Bính biết, ông cũng không hài lòng.
Cảm ơn tác giả Trần Đình Thu đã cho chúng ta biết thêm cái hay cái đẹp của bài thơ và nói hộ lòng bạn đọc.
Cảm ơn Phale vì lòng yêu thơ đã có công sưu tầm, chọn lọc và giới thiệu.

phale
06-10-2009, 12:52 PM
PL xin phép giới thiệu 3 bài thơ mà anh TT đã đề cập trong reply trên:

Mưa Xuân

Em là con gái trong khung cửi
Dệt lụa quanh năm với mẹ già
Lòng trẻ còn như cây lụa trắng
Mẹ già chưa bán chợ làng xa.

Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay
Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy
Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ
Mẹ bảo: "Thôn Đoài hát tối nay".

Lòng thấy giăng tơ một mối tình
Em ngừng thoi lại giữa tay xinh
Hình như hai má em bừng đỏ
Có lẽ là em nghĩ đến anh.

Bốn bên hàng xóm đã lên đèn
Em ngửa bàn tay trước mái hiên
Mưa chấm bàn tay từng chấm lạnh
Thế nào anh ấy chả sang xem!

Em xin phép mẹ, vội vàng đi
Mẹ bảo xem về kể mẹ nghe.
Mưa bụi nên em không ướt áo
Thôn Đoài cách có một thôi đê.

Thôn Đoài vào đám hát thâu đêm
Em mải tìm anh chả thiết xem
Chắc hẳn đêm nay giường cửi lạnh
Thoi ngà nằm nhớ ngón tay em.

Chờ mãi anh sang anh chẳng sang
Thế mà hôm nọ hát bên làng
Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn
Để cả mùa xuân cũng nhỡ nhàng!

Mình em lầm lũi trên đường về
Có ngắn gì đâu một dải đê!
Áo mỏng che đầu mưa nặng hạt
Lạnh lùng thêm tủi với canh khuya

Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay
Hoa xoan đã nát dưới chân giày
Hội chèo làng Đặng về ngang ngõ
Mẹ bảo: "Mùa xuân đã cạn ngày".

Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày
Bao giờ em mới gặp anh đây?
Bao giờ hội Đặng đi ngang ngõ
Để mẹ em rằng hát tối nay?

Nguyễn Bính

Tương tư

Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người,
Gió mưa là bệnh của trời,
Tương Tư là bệnh của tôi yêu nàng,

Hai thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này,
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng,

Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành,
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi,

Tương tư thức mấy đêm rồi,
Biết cho ai hỏi ai người biết cho,
Bao giờ bến mới gặp đò,
Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau,

Nhà em có một giàn trầu,
Nhà tôi có một hàng cau liên phòng,
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ trầu không thôn nào.

Nguyễn Bính

Những Bóng Người Trên Sân Ga

Những cuộc chia lìa khởi tự đây
Cây đàn sum họp đứt từng dây
Những đời phiêu bạt thân đơn chiếc
Lần lượt theo nhau suốt tối ngày .

Có lần tôi thấy hai cô gái
Sát má vào nhau khóc sụt sùi
Hai bóng chung lưng thành một bóng
"Đường về nhà chị chắc xa xôi ?"

Có lần tôi thấy một người yêu
Tiễn một người yêu một buổi chiều
Ở một ga nào xa vắng lắm
Họ cầm tay họ bóng xiêu xiêu .

Hai người bạn cũ tiễn chân nhau
Kẻ ở sân toa kẻ dưới tàu
Họ giục nhau về ba bốn bận
Bóng nhòa trong bóng tối từ lâu.

Có lần tôi thấy vợ chồng ai
Thèn thẹn chia tay bóng chạy dài
Chị mở khăn giầu anh thắt lại:
"Mình về nuôi lấy mẹ, mình ơi !"

Có lần tôi thấy một bà già
Đưa tiễn con đi trấn ải xa
Tàu chạy lâu rồi, bà vẫn đứng
Lưng còng đổ bóng xuống sân ga .

Có lần tôi thấy một người đi
Chẳng biết về đâu nghĩ ngợi gì
Chân bước hững hờ theo bóng lẻ
Một mình làm cả cuộc phân ly.

Những chiếc khăn màu thổn thức bay
Những bàn tay vẫy những bàn tay
Những đôi mắt ướt nhìn đôi mắt,
Buồn ở đâu hơn ở chốn này?

Nguyễn Bính


PL cũng thấy bài Tương tư không hay bằng bài Mưa xuân, nhưng có lẽ để giới thiệu vào sách giáo khoa thì người giới thiệu hẳn đã cho rằng bài Tương Tư sẽ phù hợp hơn vì sự diễn đạt tâm lý trong bài Tương tư nhẹ nhàng hơn.

phale
06-10-2009, 01:18 PM
Kỳ 5: Bài thơ tạo ra hiệu ứng đặc biệt nhất!

Có lẽ sự kiện đặc biệt nhất trong đời thơ Nguyễn Bính là việc Tuần báo Tiểu thuyết thứ năm đăng tải bài thơ Lỡ bước sang ngang của ông vào năm 1939.

Sau khi được đăng tải, bài thơ đã tạo ra một sự say mê cuồng nhiệt trong lòng độc giả, nhất là những độc giả nữ. Người ta chuyền tay nhau để đọc, để chép bài thơ. Nhiều người không biết chữ nhưng vẫn thuộc lòng Lỡ bước sang ngang. Các bà các chị dùng nó để ngâm vịnh cho nhau nghe, để hò ru con ngủ. Bài thơ đã tạo nên một hiện tượng văn học kỳ lạ chưa từng có. Nó được phổ cập từ Bắc chí Nam. Đâu đâu người ta cũng đọc Lỡ bước sang ngang, cũng nói chuyện về Lỡ bước sang ngang. Có người kể, trong những ngày đi kháng chiến, thỉnh thoảng trên bước đường hành quân lại nghe văng vẳng giọng những người mẹ trẻ cất lên lời ru Lỡ bước sang ngang trong những xóm làng hiu quạnh.

Từ khi bài thơ được đăng tải, nhắc đến Nguyễn Bính là người ta dùng cụm từ "tác giả Lỡ bước sang ngang". Và Lỡ bước sang ngang không chỉ cuốn hút những độc giả nữ hoặc là tầng lớp bình dân. Ngay cả những trí thức lớn vẫn thích đọc thích nghe Lỡ bước sang ngang. Trong một thiên hồi ký của mình, học giả Trần Bạch Đằng kể ông từng phải đọc đi đọc lại Lỡ bước sang ngang cho cố Tổng bí thư Lê Duẩn nghe để ông quên mệt trong một lần tránh Tây đi càn.

Lỡ bước sang ngang là tên của một bài thơ nhưng đồng thời cũng là tên của cả tập thơ, bao gồm những bài như Mưa xuân, Thời trước, Lòng mẹ, Cô lái đò, Cô hái mơ, Lá thư về Bắc, Tương tư… Tập thơ này cùng với tập Tâm hồn tôi đã đưa tên tuổi của thi sĩ vượt lên trên nhiều tác giả đương thời khác.

Năm 1944, Nguyễn Bính sống cùng bạn bè ở khu vực Đa Kao, Q.1, TP.HCM ngày nay. Túng tiền tiêu, một hôm mấy anh em bàn nhau xem có cách gì kiếm tiền một cách thật đàng hoàng. Một người bạn thân của Nguyễn Bính là Hoàng Tấn bày ra một kế hay. Thế là chỉ mấy ngày sau, người ta đọc được những mẩu quảng cáo về việc bán đấu giá bản viết tay tập thơ Lỡ bước sang ngang của thi sĩ Nguyễn Bính. Tập thơ được trưng bày trong một tủ kính lớn đặt tại một nhà sách. Cuối cùng bản viết tay tập Lỡ bước sang ngang được một nhà thầu khoán yêu thơ mua với cái giá tính ra khoảng 18 triệu đồng hiện nay. Cần nhớ là Nguyễn Bính chỉ bán một bản viết tay tập thơ chứ không phải bán bản quyền cả tập thơ, nên cái giá này phải nói là quá cao.

Sau khi mua được tập thơ, nhà thầu khoán đã tổ chức bữa tiệc ăn mừng với hơn 50 quan khách, mời cả ca sĩ, nghệ sĩ ngâm thơ đến để ngâm bài Lỡ bước sang ngang. Tiệc tùng kéo dài đến tận quá nửa đêm mới ngưng. Hoàng Tấn cho biết, vào năm 1999, sau 45 năm kể từ ngày mua tập thơ viết tay của Nguyễn Bính, gia đình nhà thầu khoán hiện sinh sống ở Pháp vẫn còn lưu giữ tập thơ. Quả là một chuyện hiếm có trong văn chương.

Nhưng vì sao mà bài thơ tạo nên một hiệu ứng ghê gớm như vậy? Có gì đặc biệt trong bài thơ này? Một vài tác giả có lý giải về vấn đề này nhưng dường như không hợp lý lắm.

Lỡ bước sang ngang là câu chuyện về một người con gái bị mẹ cha bán gả cho người mà mình không yêu, phải lên xe hoa từ năm mười bảy tuổi. Bỏ lại sau lưng mối tình đầu vừa chớm nở, bỏ lại vườn dâu, bỏ lại mẹ già, người con gái ấy đi một chuyến đi định mệnh "Rồi đây sóng gió ngang sông/Đầy thuyền hận, chị lo không tới bờ".

Đấy là câu chuyện riêng của người con gái - nhân vật chị trong bài thơ Lỡ bước sang ngang - nhưng đấy cũng đồng thời là câu chuyện chung của hàng vạn, hàng triệu người con gái khác sống dưới chế độ gia đình phong kiến, dưới mái nhà mang tên gọi tam tòng tứ đức. Lễ giáo phong kiến đã đè nặng lên thân phận họ, đè nặng lên những kiếp người. Suốt cả đêm dài lịch sử, người phụ nữ Việt Nam luôn luôn khát khao được giải phóng khỏi tình trạng đó. Nhưng phải đến đầu thế kỷ 20, người ta mới dám nghĩ đến điều này. Bắt đầu từ năm 1933, Nhất Linh cùng với một số nhà văn khác trong Tự Lực Văn Đoàn đã ào ạt tấn công vào cái thành trì kiên cố đó để giải phóng người phụ nữ ra khỏi sự áp đặt của quan niệm gả bán, tư tưởng cha mẹ đặt đâu con ngồi đó, tư tưởng môn đăng hộ đối. Nhưng xã hội lúc đó vẫn còn quá nhiều những cô gái bị bán gả theo kiểu như cô Loan trong Đoạn tuyệt.

Chính vì vậy mà cho đến năm 1939, Lỡ bước sang ngang ra đời, người ta đón nhận nó như đón nhận cơn mưa giữa ngày đại hạn. Đó là nguyên nhân chính của sự thành công vang dội của bài thơ này. Bằng thể loại thơ, Lỡ bước sang ngang đã đem đến cho người ta phương tiện để than thân trách phận, để giãi bày, để tự an ủi mình mà trước đó những tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn không thể làm thỏa mãn độc giả được.

Thật ra thì trước đó một năm, những bài thơ của T.T.Kh đã gián tiếp bày tỏ vấn đề này rồi. Nhưng mấy bài thơ của T.T.Kh là những bài thơ mang tiếng nói cá nhân, còn Lỡ bước sang ngang là phát ngôn của thời đại, phản ánh một thực trạng bất công trong xã hội. Nguyễn Bính đã thay mặt hàng triệu tâm hồn người phụ nữ để phát biểu với toàn thể cộng đồng vấn đề bức xúc ấy.

Trải qua hơn nửa thế kỷ, ngày nay Lỡ bước sang ngang không còn làm xúc động nhiều người như xưa nữa, vì thời đại phong kiến đã trôi qua, tình yêu lứa đôi được giải phóng. Giờ đây những đôi trai gái yêu nhau đã được tự do lựa chọn hôn nhân cho mình. Tình cảnh lỡ bước sang ngang chỉ còn trong quá khứ đau buồn của một thời. Tuy nhiên ta không phủ nhận Lỡ bước sang ngang là một bài thơ đặc sắc của Nguyễn Bính và có một thời là bài thơ hay của thi ca Việt Nam.

Ở đây cần lưu ý, một số tác giả khi phân tích bài thơ này đã không gắn nó vào giai đoạn lịch sử mà nó ra đời, không xem xét hết đặc điểm của bài thơ nên đã có những phân tích bình giảng không chính xác. Chẳng hạn như giáo sư Hoàng Như Mai. Ông đã đi theo hướng phân tích Lỡ bước sang ngang như là một bài thơ phản ánh sự trắc trở lỡ làng muôn thuở trong tình yêu nói chung của cả nam lẫn nữ chứ không phải là những bi kịch tất yếu từ chế độ hôn nhân gia đình của lễ giáo phong kiến mà người phụ nữ phải gánh chịu, nên đã không lột tả hết bài thơ.

(Còn tiếp)

Trần Đình Thu

phale
06-10-2009, 01:21 PM
Lỡ bước sang ngang

I
"Em ơi em ở lại nhà
Vườn dâu em đốn, mẹ già em thương
Mẹ già một nắng hai sương
Chị đi một bước trăm đường xót xa.
Cậy em, em ở lại nhà
Vườn dâu em đốn, mẹ già em thương
Hôm nay xác pháo đầy đường
Ngày mai khói pháo còn vương khắp làng
Chuyến này chị bước sang ngang
Là tan vỡ giấc mộng vàng từ nay .
Rượu hồng em uống cho say,
Vui cùng chị một vài giây cuối cùng.
(Rồi đây sóng gió ngang sông,
Đầy thuyền hận, chị lo không tới bờ)
Miếu thiêng vụng kén người thờ,
Nhà hương khói lạnh, chị nhờ cậy em.
Đêm nay là trắng ba đêm,
Chị thương chị, kiếp con chim lìa đàn.
Một vai gánh vác giang san...
Một vai nữa gánh muôn vàng nhớ thương.
Mắt quầng, tóc rối tơ vương
Em còn cho chị lược gương làm gì!
Một lần này bước ra đi
Là không hẹn một lần về nữa đâu,
Cách mấy mươi con sông sâu,
Và trăm nghìn vạn nhịp cầu chênh vênh
Cũng là thôi... cũng là đành...
Sang ngang lỡ buớc riêng mình chị sao?
Tuổi son nhạt thắm phai đào,
Đầy thuyền hận có biết bao nhiêu người!
Em đừng khóc nữa, em ơi!
Dẫu sao thì sự đã rồi nghe em!
Một đi bảy nổi ba chìm,
Trăm cay nghìn đắng, con tim héo dần
Dù em thương chị mười phần,
Cũng không ngăn nỗi một lần chị đi."
Chị tôi nước mắt đầm đìa,
Chào hai họ để đi về nhà ai...
Mẹ trông theo, mẹ thở dài,
Dây pháo đỏ bỗng vang trời nổ ran.
Tôi ra đứng ở đầu làng
Ngùi trông theo chị khuất ngàn dâu thưa.

II
Giời mưa ướt áo làm gì?
Năm mười bẩy tuổi chị đi lấy chồng.
Người ta: pháo đỏ rượu hồng
Mà trên hồn chị: một vòng hoa tang.
Lần đầu chị bước sang ngang,
Tuổi son sông nước đò giang chưa tường.
Ở nhà em nhớ mẹ thương
Ba gian trống, một mảnh vườn xác xơ.
Mẹ ngồi bên cửi se tơ
Thời thường nhắc: "Chị mày giờ ra sao?"
"…Chị bây giờ"... nói thế nào?
Bướm tiên khi đã lạc vào vườn hoang.
Chị từ lỡ bước sang ngang
Trời dông bão, giữa tràng giang, lật thuyền.
Xuôi dòng nước chảy liên miên,
Đưa thân thế chị tới miền đau thương,
Mười năm gối hận bên giường,
Mười năm nước mắt bữa thường thay canh.
Mười năm đưa đám một mình,
Đào sâu chôn chặt mối tình đầu tiên .
Mười năm lòng lạnh như tiền,
Tim đi hết máu, cái duyên không về.
"Nhưng em ơi một đêm hè,
Hoa soan nở, xác con ve hoàn hồn.
Dừng chân bên bến sông buồn,
Nhà nghệ sĩ tưởng đò còn chuyến sang.
Đoái thương, duyên chị lỡ làng.
Đoái thương phận chị dở dang những ngàỵ
Rồi... rồi... chị nói sao đây!
Em ơi, nói nhỏ câu này với em...
...Thế rồi máu trở về tim
Duyên làm lành chị duyên tìm về môi.
Chị nay lòng ấm lại rồi,
Mối tình chết, đã có người hồi sinh.
Chị từ dan díu với tình,
Đời tươi như buổi bình minh nạm vàng."
Tim ai khắc một chữ "nàng"
Mà tim chị một chữ "chàng" khắc theo.
Nhưng yêu chỉ để mà yêu,
Chị còn dám ước một điều gì hơn.
Một lần hai lỡ keo sơn,
Mong gì gắn lại phím đàn ngang cung.
Rồi đêm kia, lệ ròng ròng
Tiễn đưa người ấy sang sông chị về.
Tháng ngày qua cửa buồn the,
Chị ngồi nhặt cánh hoa lê cuối mùa.

III
Úp mặt vào hai bàn tay,
Chị tôi khóc suốt một ngày một đêm.
"Đã đành máu trở về tim,
Nhưng không ngăn nỗi cánh chim giang hồ.
Người đi xây dựng cơ đồ...
Chị về trồng cỏ nấm mồ thanh xuân.
Người đi khoác áo phong trần,
Chị về may áo liệm dần nhớ thương.
Hồn trinh ôm chặt chân giường,
Đã cùng chị khóc đoạn trường thơ ngây.
Năm xưa đêm ấy giường này,
Nghiến răng... nhắm mắt... chau mày... cực chưa!
Thế là tàn một giấc mơ,
Thế là cả một bài thơ não nùng!
Tuổi son má đỏ môi hồng,
Bước chân về đến nhà chồng là thôi!
Đêm qua mưa gió đầy giời,
Trong hồn chị, có một người đi qua...
Em về thương lấy mẹ già,
Đừng mong ngóng chị nữa mà uổng công.
Chị giờ sống cũng như không
Coi như chị đã sang sông đắm đò."

Nguyễn Bính

phale
08-10-2009, 09:15 AM
Kỳ 6: Cô hái mơ


Cô hái mơ là một trong những bài thơ nổi tiếng của Nguyễn Bính được Phạm Duy phổ nhạc rất sớm. Bài thơ có lẽ được sáng tác trong khoảng thời gian từ 1939 đến 1940. Ý kiến một số tác giả cho rằng đây là bài thơ đăng báo đầu tiên của Nguyễn Bính có thể là không chính xác. Bởi bài thơ này được đăng trong Tiểu thuyết thứ năm đến tận số 14, trong khi đó ngay từ số đầu tiên Nguyễn Bính đã có thơ đăng ở tờ báo này rồi.

Cô hái mơ lấy bối cảnh ở chùa Hương. Nguyễn Bính đã nhiều lần đi chùa Hương, vậy ông sáng tác bài thơ này vào lúc nào? Theo tác giả Ngọc Giao thì ông thai nghén bài thơ này trong lần đi thăm chùa Hương vào năm 1939 cùng với nhóm bạn văn nghệ thành phố Nam Định, trong đó có Ngọc Giao. Cả bọn thuê một chiếc thuyền lớn, khởi hành từ Phủ Lý vào Bến Đục. Trên thuyền, ngoài bạn văn nghệ ra còn có một đào hát ca trù và một kép đờn lớn tuổi. Thức nhắm thì mua hẳn một con dê sống để lên thuyền làm thịt. Ngoài rượu thịt ra, theo đề nghị của Nguyễn Bính, cả bọn còn mang theo bàn đèn để vui cùng nàng tiên nâu.

Đến chùa Hương, Nguyễn Bính tách hẳn mọi người ra, lội vào rừng mơ cho đến chiều tối mới về quán trọ. Ngọc Giao cho biết trong bữa cơm tối hôm ấy Nguyễn Bính uống rượu nhiều hơn, miệng luôn lẩm nhẩm và có lúc rút sổ tay ra ghi vội vài câu. Về sau mới biết ông bắt đầu thai nghén bài thơ Cô hái mơ. Điều khiến Ngọc Giao lấy làm lạ là Nguyễn Bính thường làm thơ rất dễ dàng, chưa bao giờ vò đầu bứt tai với một thi phẩm dù ngắn dù dài, thế nhưng với bài thơ này ông lại có vẻ vất vả lắm.

Vì sao lại như thế?

Ta hãy đọc lại bài thơ Cô hái mơ để xem có điều gì lạ ở trong đó không.

Thơ thẩn đường chiều một khách thơ
Say nhìn xa rặng núi xanh lơ
Khí trời lặng lẽ và trong trẻo
Thấp thoáng rừng mơ cô hái mơ

Ấn tượng ban đầu là bốn câu thơ thật hay, thật trong trẻo. Thế nhưng ta cảm thấy có điều gì đó khang khác. Đọc kỹ một chút ta mới thấy rằng, dường như là nó kiểu cách quá. Những câu thơ này khác nhiều so với những câu tả cảnh mộc mạc chân chất mà ta quen nghe ở Nguyễn Bính như là "Hội làng mở giữa mùa thu/Giời cao gió cả giăng như ban ngày" hay là "Thu sang trên những cành bàng/Chỉ còn hai chiếc lá vàng mà thôi"... Ta thấy cái câu thơ Khí trời lặng lẽ và trong trẻo mới thật xa lạ với ông làm sao. Nó như là thơ của ai ấy. Câu thơ này mà đặt bên cạnh những câu thơ tả cảnh sau đây cũng của ông thì thật là một trời một vực:

Suốt giời không một điểm sao
Suốt giời mực ở nơi nào loang ra
Lửa đò chong cái giăng hoa
Mõ sông đùng đục canh gà le te
(Lửa đò)

Thật ra, Nguyễn Bính có khá nhiều bài thơ mà trong đó ông như muốn thoát khỏi giếng nước ao làng của mình như vậy rồi chứ không chỉ riêng trong Cô hái mơ. Chẳng thế mà Hoài Thanh đã từng nhận xét Nguyễn Bính có nhiều lúc không nhà quê chút nào. Hoài Thanh đã dẫn ra bốn câu thơ sau đây của Nguyễn Bính để chứng minh:

Đã thấy xuân về với gió đông
Với trên màu má gái chưa chồng
Bên hiên hàng xóm, cô hàng xóm
Ngước mắt nhìn trời đôi mắt trong
(Xuân về)

Nhà phê bình của chúng ta cảm thấy khó chịu về điều này và tiếc cho Nguyễn Bính. Ông viết tiếp trong Thi nhân Việt Nam: "Thế thì những câu trên này nên bỏ đi ư? Ai nỡ thế. Nhưng vì có những câu ấy mà người ta khó nhận thấy cái hay của những câu khác có tính cách ca dao" và "Đó là một điều đáng vì Nguyễn Bính phàn nàn. Đáng trách chăng là giữa những bài giống hệt ca dao người bỗng chen vào một đôi lời quá mới. Ta thấy khó chịu như khi vào một ngôi chùa có những ngọn đèn điện trên bàn thờ Phật".

Nhà phê bình nói quá đúng nhưng may mà Cô hái mơ lại là một bài thơ hay. Hơn thế nữa nó là một bài thơ xuất sắc. Nhưng bài thơ này, nếu chẳng may thất lạc mà có người mới sưu tầm được, chắc không ai xếp vào thơ Nguyễn Bính mà sẽ xếp nhầm qua cho một tác giả khác.

Ta hãy đọc tiếp khổ thơ thứ hai và ba:

Hỡi cô con gái hái mơ già
Cô chửa về ư? Đường thì xa
Mà ánh chiều hôm dần một tắt
Hay cô ở lại về cùng ta?

Nhà ta ở dưới gốc cây dương
Cách động Hương Sơn nửa dặm đường
Có suối nước trong tuôn róc rách
Có hoa bên suối ngát đưa hương

Càng đọc càng thấy nét đẹp duyên dáng thướt tha của bài thơ nhưng đồng thời lại thấy xa dần một Nguyễn Bính chân quê. Cái hình ảnh "suối nước trong tuôn róc rách" và "hoa bên suối ngát đưa hương" là hai hình ảnh đã "hương đồng gió nội bay đi rất nhiều". Vì sao lại như vậy?

Cho đến lúc này, có lẽ tất thảy chúng ta đều công nhận những lời thơ chân chất mộc mạc của Nguyễn Bính chính là những kết tinh của hồn dân tộc, xứng đáng được tôn vinh. Thế nhưng vào thời kỳ nó vừa xuất hiện, không phải ai cũng đồng ý với những đánh giá như vậy. Đây đó vẫn có nhiều ý kiến ngược lại. Chẳng hạn như tác giả Thượng Sĩ. Người này chê là Nguyễn Bính làm hò vè. Vì vậy có thể Nguyễn Bính bị một áp lực tâm lý, ảnh hưởng đến quan niệm sáng tác của mình, để mà từ đó ông cố gắng cách tân thơ mình chăng?

Tuy nhiên dù sao những bài thơ ấy cũng không hoàn toàn bị Tây hóa. Có lẽ Nguyễn Bính vẫn không muốn đi quá xa rặng tre làng dấu yêu của mình, hoặc là cái chất nhà quê đã thấm vào máu rồi nên ông không thể là một Xuân Diệu hoặc Huy Cận được. Vì vậy mà xen vào những câu thơ thật mới vẫn có những câu quê mùa. Chẳng hạn trong bài Cô hái mơ vẫn có những câu mộc mạc lẫn lộn vào đấy, dù ông cố vò đầu bứt tai để làm cho bằng được những câu thơ thật Tây:

Hỡi cô con gái hái mơ già
Cô chửa về ư? Đường thì xa

Chửa về ư là lối nói người xứ quê của ông mà Nguyễn Bính vẫn quen dùng lâu nay.

Cô hái mơ là một thi phẩm rất thành công của Nguyễn Bính nhưng là một thi phẩm cách tân, chất dân dã quê mùa còn lại quá ít. Không biết ta nên đánh giá thế nào về điều này. Có nên phê bình mạnh mẽ như Hoài Thanh hay không? Đến đây ta nhớ lại lời kể của Ngọc Giao và mới hiểu vì sao Nguyễn Bính lại quá khó khăn khi sáng tác bài thơ này đến vậy.

(còn tiếp)
T.Đ.T

phale
08-10-2009, 09:19 AM
Cô hái mơ

Thơ thẩn rừng chiều một khách thơ,
Say nhìn xa rặng núi xanh lơ,
Khí trời lặng lẽ và trong trẻo,
Thấp thoáng rừng mơ cô hái mơ

Hỡi cô con gái hái mơ già !
Cô chửa về ư ? Đường thì xa
Mà ánh trời hôm dần một tắt
Hay cô ở lại về cùng ta?

Nhà ta ở dưới gốc cây dương
Cách động Hương Sơn nửa dặm đường
Có suối nước trong tuôn róc rách.
Có hoa bên suối ngát đưa hương.

Cô hái mơ ơi !
Chẳng trả lời nhau lấy một lời.
Cứ lặng rồi đi, rồi khuất bóng.
Rừng mơ hiu hắt lá mơ rơi.

Nguyễn Bính


http://static.mp3.zing.vn/skins/gentle/flash/mp3playlist.swf?xmlURL=http://mp3.zing.vn/play/?pid=IWZDWB88||4&songID=0&autoplay=false&wmode=transparent

phale
08-10-2009, 09:22 AM
Kỳ 7: Nỗi buồn ở xóm Ngự Viên


Huế là mảnh đất nhiều duyên nợ với Nguyễn Bính. Trên hành trình rong chơi, ông đã nhiều lần đến Huế. Vì thế có một số bài thơ hay được viết ra ở đây, trong đó nổi bật là hai bài thơ Xóm Ngự Viên và Giời mưa ở Huế.

Xóm Ngự Viên nằm trong tập Mười hai bến nước, được xuất bản năm 1942, có thể nói là một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Bính, tuy nhiên nó lại ít được đề cập đến. Ở nơi có tên gọi xóm Ngự Viên ấy vốn là vườn Thượng Uyển, còn gọi vườn Ngự Uyển, là chỗ để vua cùng quần thần dạo chơi. Nhưng cho đến khi Nguyễn Bính tới đó vào tháng 9 năm 1941 thì vườn Ngự Uyển chỉ còn là dấu tích. Thay vào đó là một xóm nghèo mọc lên:

Nhà cửa xúm nhau thành một xóm
Cay nồng hơi thuốc lẫn hơi men
Mụ vợ bắc nam người tứ xứ
Anh chồng tay trắng lẫn tay đen
Đổi thay tình nghĩa như cơm bữa
Khúc "Hậu đình hoa" hát tự nhiên
Nhọc nhằn tiếng cú trong đêm vắng
Nhao nhác đàn dơi lúc đỏ đèn

Mặc dầu nhà Nguyễn vẫn còn tồn tại, triều đình Huế vẫn còn vua - quan - hoàng hậu đủ cả nhưng đấy chỉ là hình thức. Ở xóm Ngự Viên lúc ấy Nguyễn Bính đã thấy cảnh chiều tàn của chế độ phong kiến rồi:

Khoa cử bỏ rồi thôi hết Trạng
Giời đem hoa cỏ trả vườn tiên
Tôn nữ ngồi đan từng chiếc áo
Dân thường qua lại lối đi quen

Những thành phần trong hoàng tộc đã trở thành kẻ bình dân như thế, thì thời thế đã quá đổi thay rồi. Nên vui hay nên buồn? Có lẽ đấy là quy luật của trời đất, con người không thể cưỡng lại được như mấy câu thơ sau đây của Tố Hữu viết về triều đại phong kiến cuối cùng ấy:

Ý chết đã phơi vàng héo úa
Mùa thu lá sắp rụng trên đường
Mơ chi ảo mộng ngàn xưa nữa
Cây hết thời xanh đến tiết vàng

(Dửng dưng)

Tuy nhiên đối với Nguyễn Bính thì lại khác. Trong tâm tưởng của thi nhân, cảnh chiều tàn của chế độ vua quan ngàn năm ngự trị ấy đã gợi lên những nỗi niềm bâng khuâng khó tả. Ở điểm này, Nguyễn Bính và Vũ Đình Liên đã gặp nhau. Vũ Đình Liên sau khi xem lễ Nam Giao vào năm 1936 ở Huế xong đã viết mấy câu thơ: "Lòng ta là những hàng thành quách cũ/Tự ngàn năm bỗng vẳng tiếng loa xưa".

Đấy là tâm trạng hoài cổ, thể hiện bằng sự tiếc nuối bâng quơ những vàng son quá khứ. Có điều những vàng son ấy thi nhân không hề can dự vào. Sự tiếc nuối không có lý do chính đáng nào để tồn tại, nhưng lòng người vẫn không ngăn được tiếc nuối. Tiếc cho thời đại vua chúa đã về chiều, những công tằng tôn nữ phải ngồi đan từng chiếc áo kiếm sống qua ngày, những khoa thi không còn để mà "Lòng Trạng lâng lâng màu phú quý". Tiếc không còn cảnh vua cùng hàng đoàn cung tần mỹ nữ dạo chơi trong vườn Ngự Uyển để mà:

Đức vua một sớm đầu xuân ấy
Lòng đẹp theo giời, dạo Ngự viên
Cung tần mỹ nữ ngời son phấn
Theo gót nhà vua nở gót sen

Ở đây ta thấy thêm một đặc điểm nữa đối với Nguyễn Bính mà lâu nay ta không để ý đến. Ta đã để sót một đặc điểm quan trọng đối với thơ Nguyễn Bính. Đó là chất hoài cổ mà nói rộng ra hơn là hoài vọng. Mỗi thi nhân, dù ít dù nhiều đều có một chút tình cảm đó trong con người nhưng ở Nguyễn Bính, tình cảm này hiện ra rất thường xuyên và đậm nét. Riêng ở đây, trong bài thơ này, tình cảm đó hầu như lai láng. Đó là một thứ sương khói bềnh bồng phủ lên lời thơ, khiến lòng người cô quạnh. Một thứ "buồn tàn thu":

Ngự viên ngày trước không còn nữa
Giờ chỉ còn tên xóm Ngự Viên
Khoa cử bỏ rồi, thôi hết Trạng!
Giời đem hoa cỏ giả vườn tiên

Chúng ta thấy trong nhiều bài thơ, thông thường cái buồn đến ngay trong thực tại. Buồn vì lý do chia ly, buồn vì cảnh vật buồn... Chẳng hạn như cái buồn của Huy Cận trong câu thơ "Ai chết đó? Nhạc buồn chi lắm thế/Chiều mồ côi, đời rét mướt ngoài đường" hay là trong câu thơ của Lưu Trọng Lư "Chừ đây trăng nước não nùng/Chừ đây hoa cỏ bên sông rũ buồn"... Những nỗi buồn ấy có lý do rõ ràng. Nhưng ở đây thì lại khác. Ở đây cái buồn không đến từ ngay cảnh thực tại mà là vì "Khách du lần giở trang hoài cổ/Mơ lại thời xưa xóm Ngự Viên".

Ta thấy ở cái xóm Ngự Viên nghèo ấy, có lẽ không ai có thời gian để mà buồn nhiều vì mải kiếm kế sinh nhai. Chỉ có một mình thi sĩ của chúng ta ngồi tưởng tượng lại đủ thứ để mà buồn thôi:

Tay ai đấy nhỉ gieo cầu đấy
Nghiêng cả mùa xuân Trạng ngước nhìn
Trạng bắt sai rồi, lầu rủ sáo
Có người đêm ấy khóc giăng lên
Bóng ai thấp thoáng sau bờ trúc
Chẳng Tống Trân ư cũng Nguyễn Hiền?

Từ chỗ tưởng tượng ra như thế rồi thi sĩ buộc cái buồn vô cớ vào lòng mình:

Khách du buồn mối buồn sông núi
Núi lỡ sông bồi cảnh biến thiên...
Ngự viên ngày trước không còn nữa
Giờ chỉ còn tên xóm Ngự Viên

Nguyễn Bính làm xong bài thơ Xóm Ngự Viên trong một buổi chiều quạnh hiu nào đó rồi viết treo lên vách để ngâm ngợi và Yến Lan khi đến Huế đã được đọc bài thơ trên vách nhà đó. Bài thơ có lẽ làm cho Yến Lan chạnh lòng và cũng khiến lòng ta ngẩn ngơ như vừa đánh mất cái gì. Lâu nay ta cứ nghĩ, chỉ có Vũ Đình Liên mới làm được và làm hay những câu thơ hoài cổ như vậy. Ta không ngờ rằng, với Xóm Ngự Viên, Nguyễn Bính hầu như đã chiếm cái vị trí ấy của tác giả Ông đồ. Cái cảnh chiều tàn trong Ông đồ của Vũ Đình Liên không thể làm bâng khuâng lòng người bằng cái cảnh chiều tàn ở xóm nghèo Ngự Viên này. Bởi đây mới chính là cảnh chiều tàn của chế độ phong kiến ngàn năm. Cả một vàng son rực rỡ đọng lại trong hình ảnh Tôn nữ ngồi đan áo bên đường, nghèo nàn hơn cả thường dân. Vua quan, quần thần, hoàng hậu, công chúa, trạng nguyên, cung tần mỹ nữ, những yến tiệc, những cuộc dạo chơi, lầu son gác tía, hoa cỏ vườn tiên, tất cả được tái hiện lại và rồi vụt tắt đi, để lại hiện ra một xóm nghèo xơ xác. Đó chính là xóm Ngự Viên:

Giậu đổ dây leo suồng sã quá
Hoa tàn con bướm cánh nghiêng nghiêng
Buồn thu rơi nhẹ đôi tờ lá
Xóm vắng rêu xanh những lối hèn

Xóm vắng này có lẽ ít ai chú ý đến nó. Vì nó chẳng là gì cả trong đời sống thực tại khi đó. Chỉ có một mình thi nhân của chúng ta đến đây "lần giở trang hoài cổ" để buồn và hôm nay để lại cho đời những vần thơ da diết ấy mà thôi.

(Còn tiếp)
Trần Đình Thu

phale
08-10-2009, 09:26 AM
Xóm Ngự Viên

Lâu nay có một người du khách
Gió bụi mang về xóm Ngự Viên
Giậu đổ dây leo suồng sã quá
Hoa tàn con bướm cánh nghiêng nghiêng
Buồn thu rơi nhẹ đôi tờ lá
Xóm vắng rêu xanh những lối hèn
Khách du lần giở trang hoài cổ
Mơ lại thời xưa xóm Ngự Viên.

Có phải ngày xưa vườn Ngự uyển
Là đây, hoa cỏ giống vườn tiên?
Sớm Đào, trưa Lý, đêm Hồng Phấn
Tuyết Hạnh, sương Quỳnh, máu Đỗ Quyên
Cung tần mỹ nữ ngời son phấn
Theo gót nhà vua nở gót sen
Hương đưa bát ngát ngoài trăm dặm
Cung nữ đa tình vua thiếu niên
Một đôi công chúa đều hay chữ
Hoàng hậu nhu mì không biết ghen.
Đất rộng can chi mà đổi chác
Thời bình đâu dụng chước hòa Phiên
Mẫu đơn nở đỏ nhà vua nhớ
Câu chuyện: “Hô lai bất thượng thuyền”[1]

Có phải ngày xưa vườn Ngự uyển
Là đây, hoa cỏ giống vườn tiên?
Gót sen bước nhẹ lầu tôn nữ
Ngựa bạch buông chùng áo Trạng nguyên
Mười năm vay mượn vào kinh sử
Đã giả xong rồi nợ bút nghiên
Quan Trạng tân khoa tàn tiệc yến
Đi xem hoa nở mấy hôm liền
Đường hoa, má phấn tranh nhau ngó
Nhạc ngựa vang lừng khắp bốn bên
Thắp hương tôn nữ xin trời phật
“Phù hộ cho con được phỉ nguyền”.
Lòng Trạng lâng lâng màu phú quý
Quả cầu nho nhỏ bói lương duyên
Tay ai ấy nhỉ gieo cầu đấy?
Nghiêng cả mùa xuân Trạng ngước nhìn.
Trạng bắt sai rồi, lầu rủ sáo
Có người đêm ấy khóc giăng lên
Bóng ai thấp thoáng sau bờ trúc
Chẳng Tống Trân[2] ư cũng Nguyễn Hiền[3]?
Khách du buồn mối buồn sông núi
Núi lở sông bồi cảnh biến thiên

Ngự viên ngày trước không còn nữa
Giờ chỉ còn tên xóm Ngự Viên
Khoa cử bỏ rồi, thôi hết Trạng!
Giời đem hoa cỏ trả vườn tiên
Tôn nữ ngồi đan từng chiếc áo
Dân thường qua lại lối đi quen.
Nhà cửa xúm nhau thành một xóm
Cay nồng hơi thuốc lẫn hơi men
Mụ vợ bắc nam người tứ xứ
Anh chồng tay trắng lẫn tay đen
Đổi thay tình nghĩa như cơm bữa
Khúc “Hậu đình hoa”[4] hát tự nhiên.
Nhọc nhằn tiếng cú trong thanh vắng
Nhao nhác đàn dơi lúc đỏ đèn…

Hôm nay có một người du khách
Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên.

Nguyễn Bính
---------------
1. Lấy từ bài thơ của Lý Bạch:

Lý Bạch nhất đẩu thi bách thiên
Trường An thị thượng tửu gia miên
Thiên tử hô lai bất thượng thuyền
Tự xưng thần thị tửu trung tiên

(Ta đây một đấu viết trăm bài
Xóm chợ li bì quán rượu chơi
Thuyền ngự chẳng sang vua gọi mặc
Rằng ta uống rượu cũng tiên rồi)
2. Trạng nguyên đời vua Lý Nam Đế, tục truyền đỗ Trạng năm lên 7 tuổi
3. Trạng nguyên đời vua Trần Thái Tông, đỗ Trạng năm 13 tuổi
4. Hậu đình hoa (”Hoa ở sân sau”) là một tập thơ chọn lọc rồi phổ thành âm điệu cho các cung nữ, phi tần hát của Trần Hậu chủ đời Hậu Trần, thời Nam Bắc triều (420-587).

phale
08-10-2009, 09:33 AM
Giờ mưa ở Huế

Giời mưa ở Huế sao buồn thế!
Cứ kéo dài ra đến mấy ngày
Thềm cũ nôn nao đàn kiến đói
Giời mờ ngao ngán một loài mây .

Trường Tiền vắng ngắt người qua lại
Đập Đá mênh mang bến nước đầỵ
Đò vắng khách chơi nằm bát úp
Thu về lại giở gió heo may ...

Chúng tôi hai đứa xa Hà Nội
Bốn tháng hình như kém mấy ngày
Lăn lóc có dư mười mấy tỉnh
Để rồi nằm mốc ở nơi đây

Thuốc lào hút mãi người ra khói
Thơ đọc suông tình hết cả hay
Túi rỗng nợ nần hơn Chúa Chổm
áo quần trộm mượn, túng đồ thay.

Hàng xóm có người con gái lẻ
Ý chừng duyên nợ với nhau đây
Chao ơi! ba bốn tao ân ái
Đã đủ tan tành một kiếp trai.

Tôi rờn rợn lắm giai nhân ạ!
Đành phụ nhau thôi, kẻo đến ngày
Khăn gói gió đưa sang xứ lạ
Ai cười cho được lúc chia tay ?

Giời mưa ở Huế sao buồn thế!
Cứ kéo dài ra đến mấy ngày
Xa xôi ai nhớ mà thương nhớ ?
Mà nhớ mà thương đến thế này !

Cố nhân chẳng khóa buồng xuân lại
Vung vãi ân tình khắp đó đây.
Mưa chiều, nắng sớm, người ta bảo
Cả đến ông giời cũng đổi thay

Gia đình thiên cả lên thành thị
Buôn bán loanh quanh bỏ cấy cày
"Anh em cánh nhạn người Nam Bắc
Tâm sự hồn quyên lệ ngắn dài ..."

Giời mưa ở Huế sao buồn thế!
Cứ kéo dài ra đến mấy ngày
Hôm qua còn sót hơn đồng bạc
Hai đứa bàn nhau uống rượu say

Nón lá áo tơi ra quán chợ
Trơ vơ trên bến nước sông đầy
Sầu nghiêng mái quán mưa tong tả
Chén ứa men lành lạnh ngón tay.

Ôn lại những ngày mưa gió cũ
Những chiều quán trọ, những đêm say
Người quen nhắc lại từng tên một
Kể lại từng nơi đặt dấu giầy

Trôi dạt dám mong gì vấn vít
Sòng đời thua nhẵn cả thơ ngây
Tỉ tê gợi tới niềm tâm sự
Cúi mặt soi gương chén rượu đầy

Bốn mắt nhuộm chung màu lữ thứ
Đôi lòng hòa một vị chua cay
Đứa thương cha yếu thằng thương mẹ
Cha mẹ chiều chiều ... con nước mây

Không hiểu vì đâu hai đứa lại
Chung lưng làm một chuyến đi đầy ?
Giời mưa ở Huế sao buồn thế!
Cứ kéo dài ra đến mấy ngày ...

Nguyễn Bính