PDA

View Full Version : Bàn Về Thơ Đường



kehotro
09-05-2010, 10:35 PM
Như chúng ta đã biết. Thơ Đường là một thể loại thơ đặc biệt với nhiều quy tắc ràng buộc. Những nghiên cứu từ cổ nhân đã tạo cho thơ Đường một bản sắc độc đáo, hoàn chỉnh về nhiều góc độ. Tuy có những gò bó, hạn chế nhưng nếu người làm thơ thể hiện được sự thanh thoát, thi vị của thơ thì đó mới gọi là sự tài tình. Nhân tiện đọc bài viết của Hoàng Thứ Lang, KHT xin mạn phép lấy làm tài liệu tham khảo cho các bạn yêu thích thể loại này nghiên cứu thêm.

Thơ Đường luật (Luật thi)

Tiền Mộc Yêm, tác giả sách Ðường Ẩm Thẩm Thể nói rằng: “Luật đây là sáu luật, là luật hòa hợp âm thanh. Luật thơ cũng giống như kỷ luật dụng binh, pháp luật hình án, nghiêm ngặt chặt chẽ, không được vi phạm”. Có thể giải thích thêm về thể cách của luật thi như sau:

a. Trong một câu, bằng trắc cần phải điều tiết.
b. Trong khoảng hai câu liền nhau, sự đối ngẫu cần phải khéo.
c. Trong một bài, âm thanh cần phải chọn sao cho có sự cao thấp, bổng trầm.
Tóm lại, ba điều kiện cần thiết của luật thi là niêm, luật và đối.

Về đối ngẫu, Lưu Hiệp đời Lục Triều, tác giả sách Văn Tâm Ðiêu Long, đã phân biệt bốn cách là: Ngôn đối, Sự đối, Chính đối và Phản đối. Ngôn đối là đối bằng lời suông. Sự đối là đối bằng điển cố. Hai câu mỗi câu trình bày một sự việc nhưng nói lên cùng một ý, là chính đối. Nếu hai sự việc đó trái ngược nhau, thì gọi là phản đối. Sự đối và phản đối khó làm hơn và có giá trị hơn là ngôn đối và chính đối.

Ðến thời Sơ Ðường, Thượng Quan Nghi phân biệt sáu cách đối là:

1. Chính danh đối, như càn khôn đối với nhật nguyệt.
2. Ðồng loại đối, như hoa diệp đối với thảo mao.
3. Liên châu đối, như tiêu tiêu đối với hách hách.
4. Song thanh đối, như hoàng hòe đối với lục liễu.
5. Ðiệp vận đối, như bàng hoàng đối với phóng khoáng.
6. Song nghĩ đối, như xuân thụ đối với thu trì.
(theo sách Thi uyển loại cách)

Một bài luật thi hoàn chỉnh dùng vào việc ứng chế, ứng thí, có thể định nghĩa là một bài thơ tám câu hoặc năm chữ ngũ ngôn luật thi hoặc bảy chữ thất ngôn luật thi, phải theo những qui tắc nhất định về niêm, luật; bốn câu 3,4 và 5,6 phải đối nhau từng đôi một.

Ngoài những bài có bốn câu giữa đối nhau, cũng có những bài hoặc sáu câu toàn đối, hoặc tám câu toàn đối.

Về vận, bài luật thi bắt buộc phải dùng vận chính (không được dùng vận thông, vận chuyển), căn cứ vào cuốn qui định vận bộ do triều đình ban hành. Ðời Ðường Huyền Tông có cuốn “Vận Anh”, cải biên theo cuốn “Thiết Vận” của Lục Pháp Ngôn đời Tùy, rồi cuốn “Ðường Vận” của Tôn Miễn, bổ khuyết sách trên.

Về việc dàn ý, bài luật thi vốn có bố cục như sau: các câu 1, 2 là khởi (khai), các câu 3, 4 là thừa, các câu 5, 6 là chuyển, các câu 7, 8 là hợp (hạp). Ngoài các câu đầu và kết ra, trong những câu giữa, muốn nói gì cũng được, không có lệ nhất định. Chỉ trong những khoa thi về sau, bài luật thi mới có bố cục chật hẹp (phá, thừa, thực, luận, kết).

kehotro
09-05-2010, 10:38 PM
"Thể thơ Đường luật, về hình thức, các nhà thi học đều công nhận là toàn hảo. Nhưng nó chỉ thích hợp với những tình cảm đã được tiết chế, với những tâm hồn trầm tĩnh, với những người nặng về đời sống nội tâm. Nó không còn thích hợp với người hiện đại, bởi lòng luôn bị ngoại cảnh chi phối, rất ít khi được yên tĩnh, ung dung, nhịp lòng và nhịp thơ không thể hài hòa với nhau được thỏa đáng".

Thơ có nhiều thể, thể nào cũng có ưu điểm, khuyết điểm hoặc nhược điểm. Chúng ta chọn thể thơ Đường luật là vì thể thơ này thích hợp với tâm hồn của chúng ta. Thể thơ này đã bị các nhà Thơ Mới đả kích dữ dội ngót mười năm từ 1932 đến 1941. Bị công kích, đả đảo ngay khi thể thơ mới ra đời, đã bị một số danh gia, như Lý Thái Bạch, Hàn Sơn ... chỉ trích nặng lời, chớ chẳng đợi đến các thi nhân sanh sau hàng ngàn năm.
Bị đả kích mà vẫn tồn tại bởi có những ưu điểm. Trừ những kẻ thiên kiến, những người không độ lượng, không ai phủ nhận, không ai nỡ hủy diệt, trái lại còn rũ lòng ấp ủ nâng niu

Để mở đầu phần Thi Pháp Thơ Đường Luật, hôm nay Hoàng Thứ Lang xin trích bàn về Phép dụng tự.

Thơ Đường thường dùng thực tự ít dùng hư tự.
Các nhà thi học đời sau thường nhận xét rằng: "Thơ mà dùng hư tự không hay". Đó là lời của Triệu Mạnh Phủ đời Nguyên. Người đồng thời cùng họ Triệu là Phạm Phanh nói thêm: "Thơ dùng nhiều thực tự thì mạnh, dùng nhiều hư tự thì yếu". Tạ Trăn cũng nói: "Dùng nhiều thực tự thì ý giản mà câu mạnh, dùng nhiều hư tự thì ý phồn mà lời yếu".
Xét kỹ thì Cổ Thi thường dùng hư tự, Luật Thi thường dùng thực tự. Đường nhân hay dùng thực tự, Tống nhân hay dùng hư tự.

Nói là chuyên dùng, ưa dùng ... là chuyên dùng nhiều, ưa dùng nhiều tự loại này hơn tự loại kia đó thôi. Hư tự dùng để đẩy đưa lời thơ, để gắn nối chữ này với chữ nọ. Dùng nhiều thực tự quá câu thơ thành nặng nề. Dùng nhiều hư tự quá câu thơ trở nên lỏng lẻo bên lời, cạn cợt bên ý. Phải sử dụng sao cho thích ứng, cho cân xứng. Như thế mới là diệu thủ.

Trong làng thơ Quốc âm, bà Huyện Thanh Quan hay dùng thực tự, bà Hồ Xuân Hương hay dùng hư tự. Tôn Thọ Tường thường dùng thực tự, Trần Tế Xương thường dùng hư tự.

Dùng nhiều thực tự thì thơ cô đọng chững chàng. Dùng hư tự vừa phải thì thơ nhẹ nhàng bay bướm. Xin dẫn chứng:

Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
(Bà Huyện Thanh Quan)

Bát canh Quảng Võ ơn còn nhớ
Chén rượu Hồng Môn lệ khó ngăn
(Tôn Thọ Tường)

Tóc vướng hơi hương vườn thúy liễu
Lòng nương tiếng địch bến vi lô
(Tú Xương)

Sóng lớp phế hưng coi đã rộn
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau
(Bà Huyện Thanh Quan)

Nghi ngút tro tàn nền đạo nghĩa
Lờ mờ bụi đóng cửa trâm anh
(Tôn Thọ Tường)

Thà không trời đất không chi cả
Còn có non sông có lẽ nào
(Phan Sào Nam)

Chiếc bá buồn vì phận mỏng mênh
Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh
Lưng khoang tình nghĩa dường lai láng
Nửa mạn phong ba luống bập bềnh
Cầm lái mặc ai lăm đổ bến
Giang chèo thây khách rắp xuôi ghềnh
Ấy ai thăm ván căm lòng vậy
Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh
(Hồ Xuân Hương)

Đó là những câu dùng hư tự nhiều mà hay, nhất là câu thơ của Phan Sào Nam thật là hy hữu.

Dùng hư tự mà không khéo thì câu thơ thành non nớt, không truyền được cảm, mặc dù trong thơ có nhiều tình:

Trên đài hiu hắt ngọn đèn hoa
Gang tấc xem bằng mấy dặm xa
Một kiếp đã đành rằng để vậy
Chín trùng có thấu đến chăng là
Ỏi tai ngán nỗi đàn ve gảy
Tan mặt buồn tênh cái nhện sa
Ví biết thân này chi khó bấy
Quyền môn chen chúc chẳng bằng thà

Đó là một bài thơ được truyền tụng nhan đề CUNG OÁN.
Trong sách "Phép làm thơ" của Diên Hương chép là của Ôn Như Hầu. Theo Quách Tấn nhận xét thì không phải, vì bút pháp của Ôn Như Hầu rất già dặn, chải chuốt. Thơ trong Cung Oán Ngâm Khúc đã nổi danh là điêu luyện đến mức, và những câu sau đây, chỉ vài câu còn truyền tụng thôi, cũng đủ chứng minh rằng những câu thơ quá dễ dãi trên đây không phải là di sản của Ôn Như Hầu:

Cõi thế lênh đênh thuyền hạo kiếp
Lẽ trời lồng lộng võng huyền cơ
(Cảm tác - Ôn Như Hầu)

Man mác cảnh đâu ngoài vạn dặm
Bâng khuâng chuyện những mấy trăm năm
(Nghe ếch kêu - Ôn Như Hầu)

Lời thơ tự nhiên, lưu loát chớ không quê vụng như bài CUNG OÁN trên.

Bài CUNG OÁN có nhiều chữ dư, tức là những chữ không cần thiết, chỉ đem vào cho đủ vế mà thôi. Chúng ta nên tránh.
Chẳng những tránh dùng chữ thừa, mà còn tránh dùng một chữ đến 2 hoặc 3 lần, trừ khi cố ý nhấn mạnh, cố ý làm nổi bật một tứ thơ.

Lỗi bị trùng chữ rất thường xảy ra. Đến các bậc lão luyện vẫn nhiều khi vấp phải. Như Tố Như trong bài Vọng Phu Thạch.
Nhưng vì bài thơ có giá trị của viên ngọc liên thành, cho nên những vết nhỏ kia có thể bỏ qua. Tuy nhiên nếu viên ngọc toàn mỹ thì càng quý bội phần.

Tản Đà thỉnh thoảng cũng không tránh khỏi. Tiên sinh có bài THEO VOI ĂN BÃ MÍA cũng bị phạm lỗi này.

Chúng ta không phải như Tố Như, Tản Đà nên đừng bắt chước.
Huống nữa đã là lỗi thì dù là của bậc đại gia văn chương đi nữa cũng không nên lấy đó làm gương.

Tránh những chữ vô dụng, tránh những chữ trùng điệp.
Lại còn phải tránh:
1. Điệp thanh.
2. Điệp âm.
3. Điệp vận.

kehotro
09-05-2010, 10:42 PM
--------------------------------------------------------------------------------

Trong bài Phép dụng tự có đề cập đến việc bài thơ phải tránh:
1. Điệp thanh
2. Điệp âm
3. Điệp vận

Hôm nay xin được tiếp tục bàn về ba điểm trên. Trong phạm vi bài này chỉ bàn về Thơ Thất Ngôn Luật Thi mà thôi (Thơ Ngũ Ngôn Luật Thi sẽ bàn vào một dịp khác).


1. Điệp thanh:

Chữ thứ 4 và chữ thứ 7 trong các câu luật trắc vần bằng. Hai chữ ấy đều bình thanh thì thượng đoản hạ trường, hoặc ngược lại (thượng trường hạ đoản), chớ đừng dùng cả hai hoặc đều đoản hay đều trường.
Thí dụ 1 (cả hai đều cùng đoản bình thanh):

Thành Loa vừa thấy xây vua Thục
Ải Lạng quanh coi đuổi giặc Ngô
(Nguyễn Đỉnh Ngọc)

Câu thơ không có tiếng ngân, hơi thơ đọc xong là đứt không đủ sức đi vào lòng người đọc người nghe.

Tuy vậy vẫn còn đỡ hơn chữ thứ 4 và chữ thứ 7 đều cùng trường.
Thí dụ 2 (cả hai đều cùng trường bình thanh):

Nõn nà sắc nước nhờ ơn nước
Ngào ngạt hương trời ngát dặm trời
(Lê Thánh Tôn)

Câu thơ quặp ở giữa lưng như bụi chuối bị gió thổi gãy, âm hưởng nghe chìm lỉm như tiếng trống bị đùn da. Lỗi này nên tránh.

Thượng đoản hạ trường hoặc thượng trường hạ đoản thay đổi nhau thì câu thơ mới hài hảo.

Tuy nhiên nếu chữ thứ 4 có một trường bình thanh đứng kề thì câu thơ lại đọc nghe êm tai.
Thí dụ:

Thay mười tám triệu người ăn nói
Mở bốn ngàn năm mặt nước non
(Trần Tế Xương)

Mấy hàng tóc bạc từng dâu bể
Một tấm lòng son giải núi sông
(Đặng Xuân Bảng)

Nói tóm lại trong một câu Thất Ngôn thì có hoặc 4 tiếng bằng 3 tiếng trắc, hoặc 4 tiếng trắc 3 tiếng bằng thì những tiếng bằng trắc ấy phải có thanh độ khác nhau, câu thơ mới giàu âm nhạc. Trong mỗi câu ít nhất là phải có 1 tiếng trường bình thì nghe mới êm. Nhưng chớ nên dùng nhiều trường bình quá. Nhiều trường bình làm cho câu thơ yếu ớt, giọng trầm trầm khó nghe. Trong một câu Thất Ngôn có 4 tiếng bằng thì dùng 2 tiếng trường bình là vừa. Nếu một câu có 3 tiếng bằng mà dùng trường bình cả 3, hoặc 4 tiếng bằng mà dùng đến 3 trường bình thì câu thơ nghe không được du dương trầm bổng, mặc dù không phạm lỗi gì cả.
Thí dụ:

Trời làm đá nát lại vàng sôi
Thiên hạ trông mưa đứng lại ngồi
Ngày trước biết gì ăn với ngủ
Bây giờ lo cả nước cùng nôi
Trâu mừng ruộng nẻ cày không được
Cá sợ ao khô vượt cả rồi
Tình cảnh nhà ai nông nổi ấy
Quạt mo phe phẩy một mình tôi
(Trần Tế Xương)

Chúng ta nhận thấy câu đầu có 3 trường bình thanh trên 4, âm thanh nghe không được hài mỹ bằng những câu mà thanh độ điều hoà là các câu dưới.

kehotro
09-05-2010, 10:43 PM
2. Điệp âm:

Điệp thanh thì bằng vào thanh độ và chú trọng hai bình thanh là đoản bình và trường bình.
Về điệp âm thì lưu ý đến những tiếng cùng một âm căn, như ban bàn bán bản bãn bạn, thanh thành thánh thảnh thãnh thạnh ... những chữ mà một hay nhiều mẫu tự đứng trước hoặc đứng sau giống nhau, như ba bốn bữa, mây man mác, núi nặng nề ... bối rối mối, mây vây cây v.v... Những chữ đồng âm mà để gần nhau, nhất là ba hoặc bốn chữ cùng một lượt, thì nghe như nói cà lăm, nói lắp bắp, rất chướng tai (cacophonie).

Thí dụ:

Thượng toạ thiền trung sư sự sứ
Đình tiền túy tửu phụ phù phu

Đường về xóm cũ mây man mác
Nhớ đến người xưa nặng nỗi niềm

Gặp mặt cô nàng tôi bối rối
May nhờ lúc ấy tối rồi thôi

Chúng ta cùng đọc và nhận xét bài thơ sau đây:

Vô Đề

Tiếng gà bên gối tẻ tè te
Bóng ác trông ra loé loẽ loè
Non mấy trùng cao chon chót vót
Hoa năm sắc nở lỏe lòe loe
Chim tình bậu bạn kìa kia kĩa
Ong nghĩa vua tôi nhẹ nhẻ nhe
Danh lợi không màng ti tí tị
Ngủ trưa chưa dậy khỏe khòe khoe

Nguyễn Thượng Hiền

kehotro
09-05-2010, 10:47 PM
--------------------------------------------------------------------------------

3. Điệp vận:

Tương tự như điệp thanh. Điệp vận ở chữ thứ 4 và chữ thứ 7.
Nhất là ở những câu luật trắc vần bằng.

Thí dụ:

Người hỡi Nghiêm Lăng có biết chăng
Lòng ta ý gã mấy ai bằng

Thôi thôi dại sớm thời khôn sớm
Nhắn kẻ chưa què chớ vội khoe

Hai đứa chung dòng nước Cửu Long
Thương nhau chẳng gặp nát tan lòng

Bẽ bàng lối cũ hoa chào gió
Thổn thức canh trường nhạn khóc sương

Quyên rầu rĩ tiếng chùng dây sắt
Nhạn lẻ loi đường thẹn bóng gương

Đứng chéo trông theo cảnh hắt heo
Đường đi thiên thẹo quán cheo leo

Khi dang thẳng cánh bù khi cúi
Chiến đứng không thôi lại chiến ngồi

Trai đu gối hạc khom khom cật
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng

Xiếu mai chi dám tình trăng gió
Bồ liễu thôi đành phận mỏng manh


Thơ Thất Ngôn chẳng những tránh điệp vận ở những câu có vần, mà phải tránh cả ở những câu không vần nữa. Và chẳng những phải tránh ở chữ thứ 4 thứ 7, mà còn phải tránh cả ở những chữ thứ 2 và thứ 6 nữa.

Thí dụ:

Tình quê ấp ủ mùi hương cũ
Tin bạn mơ màng bóng nhạn xa

Nghĩ mình vốn cũng đa tình lắm
Mà dạ người thương chẳng tỏ tường

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

Điệp vận ở chữ thứ 4 và thứ 7 gọi là Đại Vận.
Điệp vận ở chữ thứ 2 và thứ 6 gọi là Tiểu Vận.
Cả hai đều là bệnh của thơ.
Những điểm này sẽ được nói thêm trong phần Thi Bệnh sắp tới.

kehotro
09-05-2010, 10:50 PM
Trong phần trước nói về Phép dụng tự, và bàn về làm thơ nên tránh những điệp thanh, điệp âm, điệp vận v.v... tức là tránh những bệnh của thơ.
Thi bệnh không phải chỉ có bấy nhiêu, mà còn hàng chục bệnh khác nữa.
Sau đây là phần trích bàn về:

THI BỆNH

Từ đời Tấn trở về trước, làng thơ không nói đến thi bệnh mặc dù bệnh đã có từ xưa. Đến đời Lục Triều (221-581) sang đời Tùy (581-621), các thi nhân gây ra phong trào nghiên cứu thanh vận, Thẩm Ước đề xướng thuyết Tứ Thanh, Bát Bệnh, được phần đông tao khách hưởng ứng, đem áp dụng vào thơ Ngũ Ngôn.
Ngũ Ngôn ở đây là Ngũ Ngôn cổ thể.
Ngũ Ngôn và Thất Ngôn Luật Thi đến đời Đường, nghĩa là gần nửa thế kỷ sau mới sản xuất.
Cho nên tám bệnh của Thẩm Ước đưa ra không đem áp dụng vào thơ Ngũ Ngôn và Thất Ngôn Đường Luật được. Mà chúng ta giảng cứu đây là giảng cứu về Luật Thi. Tuy vậy tưởng chúng ta cũng nên biết qua để làm giàu thêm cho cái vốn học vấn.
Trước hết chúng ta nên biết rằng tám bệnh kia không phải Thẩm Ước đặt ra. Chính cũng như những bệnh dịch hạch dịch tả, bệnh phong bệnh lao ... ở ngoài đời. Những thi bệnh đã có trong thơ từ khi mới có thơ và thơ càng phát triển, thi bệnh càng sanh thêm nhiều. Thẩm Ước chỉ có công phát hiện và đặt cho mỗi bệnh cái tên. Để cho khách tri âm dễ nhận thấy bệnh, họ Thẩm mới giải rõ bệnh lý, mới tả rõ bệnh trạng, mới thuyết rõ bệnh căn.
Nhận thấy được bệnh rồi thì tránh bệnh hoặc trị bệnh không đến nỗi khó khăn.

Sau khi Thi luật được điển chế thì phần nhiều bệnh của Thơ Ngũ Ngôn không còn chỗ để xâm nhập. Song những bệnh này bị diệt trừ thì những bệnh khác lại sanh sản. Bởi hễ đời còn người, người dẫu đã văn minh tiến bộ đến đâu, vẫn còn bệnh; thì thơ còn chữ, dù chữ đã tinh luyện đến đâu, cũng vẫn còn bệnh như đời. Cho nên khách làng thơ Đường luật vẫn dùng những bệnh danh của Thẩm Ước để gọi những bệnh mới sanh trong thơ Cận Thể và tương tợ với những bệnh trong thơ Cổ Thể. Danh tuy đồng nhưng bệnh căn và bệnh trạng đều khác. Để bớt rườm rà, ở đây chỉ nói về những bệnh trong Thất Ngôn Luật Thi.

Tám bệnh danh thường gặp của Thất Ngôn Luật Thi là:

1. Bệnh Bình Đầu
2. Bệnh Thượng Vỹ
3. Bệnh Phong Yêu
4. Bệnh Hạc Tất
5. Bệnh Bàng Nữu
6. Bệnh Chánh Nữu
7. Bệnh Đại Vận
8. Bệnh Tiểu Vận

kehotro
09-05-2010, 10:52 PM
--------------------------------------------------------------------------------

THI BỆNH (tiếp theo)

Hôm nay chúng ta cùng nghiên cứu về thi bệnh thứ nhất, đó là bệnh

1. BÌNH ĐẦU:

Bệnh này nằm ở 2 hoặc 3 chữ đầu của 2 liên đứng kề nhau, tức là 2 hay 3 chữ đầu của 4 câu: 4 câu trước hoặc 4 câu giữa hoặc 4 câu sau trong bài bát cú.
Hai hay 3 chữ đầu của 4 câu đứng liền nhau không được cùng một tự loại. Nếu cùng một tự loại thì đầu 4 câu trông bằng nhau như để thước mà xắn, nên gọi là Bình Đầu.
Bệnh bình đầu ở Ngũ Ngôn có thể do trùng thanh độ mà có.
Bệnh bình đầu ở Thất Ngôn Luật Thi do đồng tự loại mà ra.
Cổ thể (thơ cổ phong) thì chỉ 2 câu liền nhau đã gây ra thi bệnh. Cận thể (thơ Đường luật) phải 4 câu liền nhau mới có thể sinh ra bệnh. Bệnh căn và bệnh trạng hai bên khác nhau là thế.
Các bệnh khác đại để cũng vậy.

Xin cử một vài thí dụ về bệnh Bình Đầu:

1.
HOA SEN

Nắng sưởi ao xanh nắng ửng hường
Bèo lây cốt cách súng lây hương
Sắc ngời Ngân hán thô màu gấm
Bóng dợn Thiềm cung thẹn dáng gương
Ơn nước nặng mang tình uỷ ký
Lòng tơ riêng vướng nợ văn chương
Non xưa sực nhớ hồi ly biệt
Tiếng hạc canh dài mộng vấn vương

Liên Tâm


2.
LĂNG MAI XUÂN THƯỞNG

Lưng ngựa ba đông dặm chiến trường
Hoành sơn đá chất nghĩa Cần Vương
Làu làu bóng rạng gương Hoàng Nguyễn
Vọi vọi nền cao tiết Vũ Trương
Ôm ấp hùng tâm bia chuốt ngọc
Giữ gìn trung cốt đất sanh hương
Trăng lên ba biểu chờ tin hạc
Một nén tinh thành gió bốn phương

Tú Xương


3.
CUNG OÁN (1)

Trước ốc huỳnh hôn đứng vẩn vơ
Thêm ngao ngán cảnh chạnh lòng thơ
Hài hoa bước khẽ chiều tha thiết
Mắt phụng trông chừng luống ngẩn ngơ
Trướng bạc những khi hơi bích lọt
Nhà vàng bao thuở thoả ân thừa
Âm thầm luống chịu mình u bế
Đừng trách đời Đường hạn chẳng mưa

Khuyết danh


4.
CUNG OÁN (2)

Hay cợt người chi một chữ tình
Thôi đừng dở rối lại buồn tênh
Giọng rầu rĩ dế càng đưa tiếng
Mặt ủ ê hoa khéo đạm hình
Gió phảng phất chiều kề trước giại
Nguyệt mờ mệt vẻ hé bên mành
Đến Dương bao nả hơi xuân bén
Đành để riêng ai chịu bất bình

Khuyết danh


Hai bài Cung Oán này là 2 bài thơ cổ khuyết danh (không biết tác giả). Trong sách "Phép làm thơ", Diên Hương ghi là của Ôn Như Hầu. Tuy nhiên nhiều người nghi ngờ là không phải của Ôn Như Hầu vì bút pháp của Ôn Như Hầu rất lão luyện, còn văn chương 2 bài Cung Oán này (cũng như những bài Cung Oán khác) có phần kém thôi xao. Hai bài này được trích dẫn ra đây chỉ để trình bày về Thi Bệnh mà thôi.

Hoàng Thứ Lang không có nhiều thì giờ sao lục, sưu tập những bài thơ theo từng loại thi bệnh của nhiều tác giả để cùng các bạn phân tích cho thêm phần phong phú.
Tuy nhiên, nếu có thể được thì Hoàng Thứ Lang sẽ làm từ từ để có dịp hầu chuyện cùng các bạn.

kehotro
09-05-2010, 10:54 PM
THI PHÁP: PHÂN TÍCH THƠ CỦA CÁC DANH GIA THI SĨ

Topic nầy chỉ đơn cử mỗi tác giả 1-2 bài thơ điển hình, gặp đâu trích đó.
Không thể trưng dẫn hết được, vì quá nhiều. Và cũng không thể lượt qua hết các tác giả.

1. NGUYỄN KHUYẾN

VỊNH MÙA HÈ

Biếng trông trời hạ nước non xa
Ý khí ngày thường nghĩ đã trơ
Cá vượt khóm rau lên mặt nước
Bướm len lá trúc lượn rèm thưa
Thơ Đào cửa miệng đưa câu rượu
Xóm Liễu quanh khe chịu tiếng khờ
Nhân hứng cũng vừa toan cất chén
Sấm đông rầm rập gió nồm đưa

Nguyễn Khuyến


Phân tích:

Chúng ta nhận thấy bài thơ này bị thất đối ở cả 2 cặp trạng và luận. Nặng nhất là thất đối ở những chữ cuối câu.

kehotro
09-05-2010, 10:55 PM
HỎI THĂM QUAN TUẦN BỊ MẤT CƯỚP

Tôi nghe kẻ cướp nó lèn ông
Nó lại lôi ông đến giữa đồng
Lấy của đánh người quân tệ nhỉ
Xương gà da cóc có đau không
Bây giờ mới thấy trầy da trán
Ngày trước đi đâu mất mảy lông
Thôi cũng đừng nên ky cóp nữa
Kẻo mang tiếng dại với phường ngông

Nguyễn Khuyến


Chúng ta nhận thấy bài này bị phạm lỗi đại vận và không chỉnh đối về phân tích tự loại.

kehotro
09-05-2010, 10:56 PM
CẢM HỨNG

Ngày trước cũng lên lạy cửa trời
Lâu nay vắng vẻ bặt tăm hơi
Nước non man mác về đâu tá
Bè bạn lơ thơ sót mấy người
Đời loạn đi về như hạc độc
Tuổi già hình bóng tựa mây côi
Đã hay nhờ được hao mòn lắm
Một thí lòng son chửa rõ mười

Nguyễn Khuyến


Bài thơ này cũng vậy, bị thất đối.
Cụ Nguyễn Khuyến là một đại danh gia thi sĩ cho nên nhiều người đời sau không dám chê vì nghĩ rằng cụ học rộng hiểu nhiều nên làm thì phải đúng, mà đúng thì phải theo.
Chúng ta phải khách quan mà nhận xét, không thể hùa theo như vậy. Cũng như nếu chúng ta viết sử thì không thể nói Trần Thiêm Bình, Lê Chiêu Thống là yêu nước được.

chim_ri
09-05-2010, 11:05 PM
Lâu không ghé, hôm nay về thấy bài đầu trên newpost vào xem, xin tác giả có thể giải thích rõ hơn về THI BỆNH được không, ví dụ đánh chữ màu đỏ ngay những chỗ BỊNH để người xem dễ hiểu không ạ?:o

kehotro
09-05-2010, 11:39 PM
Lâu không ghé, hôm nay về thấy bài đầu trên newpost vào xem, xin tác giả có thể giải thích rõ hơn về THI BỆNH được không, ví dụ đánh chữ màu đỏ ngay những chỗ BỊNH để người xem dễ hiểu không ạ?:o

Đây là bài sưu tầm của tác giả Hoàng Thứ Lang. Bài viết này, KHT giữ nguyên bản để tôn trọng tác giả. Có những đoạn rất ngắn, KHT cũng không gộp chung. Bài viết này của HTL dành cho những người đã học qua thơ Đường nghiên cứu thêm. Việc tìm ra các lỗi của nó cũng là một cách trau dồi, ôn luyện lại kiến thức đã học.

Xin cám ơn chim_ri. KHT cũng thông qua đây để tự rèn.

Phu sinh
10-05-2010, 12:39 AM
--------------------------------------------------------------------------------

THI BỆNH (tiếp theo)

Hôm nay chúng ta cùng nghiên cứu về thi bệnh thứ nhất, đó là bệnh

1. BÌNH ĐẦU:

......
Xin cử một vài thí dụ về bệnh Bình Đầu:

1.
HOA SEN

Nắng sưởi ao xanh nắng ửng hường
Bèo lây cốt cách súng lây hương
Sắc ngời Ngân hán thô màu gấm
Bóng dợn Thiềm cung thẹn dáng gương
Ơn nước nặng mang tình uỷ ký
Lòng tơ riêng vướng nợ văn chương
Non xưa sực nhớ hồi ly biệt
Tiếng hạc canh dài mộng vấn vương

Liên Tâm


..................

PS kém cỏi nên chỉ mới nhận ra bệnh bình đầu ở bài thơ thứ 1 "Hoa sen". Cũng không dám nói chắc, chỉ là bàn thử xem sao.

- Ở 4 câu đầu đều dùng dạng danh từ + động từ: Nắng sưởi - Bèo lây - Sắc ngời - Bóng dợn.

- Ở 4 câu sau đều dùng danh từ kép: Ơn nước - Lòng tơ - Non xưa - Tiếng hạc

- Các bài sau để từ từ tìm hiểu sau.

Huyzozo
10-05-2010, 07:02 AM
Đây là bài sưu tầm của tác giả Hoàng Thứ Lang. Bài viết này, KHT giữ nguyên bản để tôn trọng tác giả. Có những đoạn rất ngắn, KHT cũng không gộp chung. Bài viết này của HTL dành cho những người đã học qua thơ Đường nghiên cứu thêm. Việc tìm ra các lỗi của nó cũng là một cách trau dồi, ôn luyện lại kiến thức đã học.

Xin cám ơn chim_ri. KHT cũng thông qua đây để tự rèn.

Thúc Thứ Lang cũng còn nhiều bài viết tỉ mỉ về lỗi cho những người mới nhập môn thơ ĐL. Đọc dễ hiểu hơn, anh KHT thử sưu tầm copy về cho mọi người cùng xem với ạ.

kehotro
12-05-2010, 12:41 AM
2. HỒ XUÂN HƯƠNG


ĐÁNH ĐU

Tám cột khen ai khéo khéo trồng
Người thì lên đánh kẻ ngồi trông
Trai đu gối hạc khom khom cật
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng
Bốn mảnh quần hồng bay phất phới
Hai hàng chân ngọc duỗi song song
Chơi xuân ai biết xuân chăng tá
Cột nhổ đi rồi lỗ bỏ không

Hồ xuân Hương


Phân tích:

Chúng ta nhận thấy bài thơ này bị phạm lỗi Đại Vận.

kehotro
12-05-2010, 12:42 AM
ĐÈO BA DỘI

Một đèo một đèo lại một đèo
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo
Cửa son đỏ loét tùm hum nóc
Hòn đá xanh rì lún phún rêu
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc
Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo
Hiền nhân quân tử ai là chẳng
Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo

Hồ xuân Hương


Bài thơ này bị thất niêm, nhưng người đời sau không dám nói lên sự thật mà nói thác ra rằng đó là bài thơ phá cách.
Đã là luật thì không có phá. Chỉ có làm sai mà không kiểm lại trước khi lưu hành.

Sách dạy: dù cho đó là danh gia thi sĩ, nhưng chúng ta không thể lấy cái sai của họ mà làm gương bắt chước theo.
Cũng như chúng ta không thể bẻ cong ngòi bút mà viết sách nói trái đất hình vuông !

kehotro
12-05-2010, 12:42 AM
CẢNH THU

Thánh thót tầu tiêu mấy hạt mưa
Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ
Xanh um cổ thụ tròn xoe tán
Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ
Bầu dốc giang sơn say chấp rượu
Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ
Ơ hay cảnh cũng ưa người nhỉ
Ai thấy ai mà chẳng ngẩn ngơ

Hồ xuân Hương


Thơ của Bà Hồ Xuân Hương có nhiều bài bị lỗi điệp ngữ, ngoại trừ những bài cố ý dùng kỹ thuật điệp ngữ pháp.

kehotro
12-05-2010, 12:43 AM
3. BÀ HUYỆN THANH QUAN


QUA ĐÈO NGANG

Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông rợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân ngoảnh lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta

Bà Huyện Thanh Quan


Bài thơ này bị lỗi Tiểu Vận.
Bà Huyện Thanh Quan được tiếng là người rất nghiêm khắc về luật thơ, nhất là chữ thứ 5 của mỗi câu. Nhưng Bà lại không tránh được chỗ này, chữ ta (chữ thứ 5 câu 8) sai luật làm thất niêm với chữ bóng, chữ thứ 5 câu 1 (vì trắc và bằng không niêm với nhau được - theo phép niêm thì câu 1 niêm với câu 8).

Sách dạy: dù cho đó là danh gia thi sĩ nhưng chúng ta không thể lấy cái sai của họ để làm gương mà bắt chước theo.
Cũng như chúng ta không thể nói trái đất hình vuông !!!

kehotro
12-05-2010, 12:43 AM
THĂNG LONG THÀNH HOÀI CỔ

Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Ðến nay thắm thoắt mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Ðá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường

Bà Huyện Thanh Quan


Bài thơ này bị lỗi điệp ngữ.

kehotro
12-05-2010, 12:44 AM
2. BỆNH THƯỢNG VĨ

Bệnh Thượng Vĩ là bệnh mà 3 chữ sau cùng của 2 liên đứng kề nhau, nghĩa là 3 chữ sau của 4 câu đứng liền nhau, hoặc 4 câu đầu, hoặc 4 câu giữa, hoặc 4 câu cuối. Kỵ nhất là chữ thứ 5. Nếu 3 chữ cuối của 4 câu, nhất là chữ thứ 5, chữ làm thi nhãn cho câu thơ, đồng tự loại, thì câu thơ như chỏng đuôi lên cao. Do đó mà gọi là bệnh Thượng Vĩ, tức là bệnh Chỏng Đuôi.
Thí dụ:

KHÓC TRƯƠNG QUỲNH NHƯ

Trời xanh cao thẳm mấy từng khơi
Nỡ để duyên ai luống thiệt thòi
Buồn đốt lò vàng hương nhạt khói
Sầu nâng chén cúc rượu không hơi
Lầu tây nguyệt gác mây lồng bóng
Ải bắc hồng sang bể tuyệt vời
Một khối chung tình tan mấy mảnh
Suối vàng ai cũng thấu lòng ai

Phạm Thái


VIẾNG THÀNH HUẾ SAU NGÀY ĐÌNH CHIẾN

Nắng nhạt chiều thu quạ rộn ràng
Sầu vương lau lách lạnh thành hoang
Tro tàn thư viện duyên ngao ngán
Đá nát hoàng cung bước ngỡ ngàng
Gầy gọ gió sương tùng Thế miếu
Bẽ bàng trăng nước trúc Hương giang
Trông vời Thiên mụ mây man mác
Lơ lửng chuông hôm rụng tiếng vàng

Tú Xương


Những chữ ngao ngán, ngỡ ngàng, và Thế miếu, Hương giang tuy không đồng tự loại (một bên là trạng từ một bên là danh từ riêng) nhưng đều là tiếng đôi (từ kép), cho nên đứng sau tiếng Duyên, Bước, Tùng, Trúc, đều là danh từ chung, trở thành bộ ba gây ra bệnh Thượng Vĩ.

Nếu chữ thứ 5 tức chữ thi nhãn, của Hạm liên và của Cảnh liên không đồng tự loại, thì dù 2 chữ sau của cả 4 câu đều một tự loại cũng không bị bệnh. Thí dụ 4 câu giữa bài Thăng Long Thành Hoài Cổ của Bà Huyện Thanh Quan, nhờ nhãn tự của Hạm liên là danh từ, nhãn tự của Cảnh liên là giời từ, nên tránh được bệnh.

Bệnh Thượng Vĩ xưa nay thường bị vấp. Trong những tác phẩm lưu truyền của các danh gia, chúng ta thường gặp những bài bị bệnh. Bị bệnh là vì thi nhân muốn cho câu thơ được già dặn hay dùng thực tự làm thi nhãn và quá chú trọng ở nhãn tự, nhiều khi quên nghĩ đến bệnh. Lúc đã nhận thấy lại tiếc chữ vừa ý, không muốn thay đổi.
Cho nên muốn tránh bệnh Thượng Vĩ, chúng ta nên để ý đến chữ thứ 5 của 4 câu đi liền nhau, đừng cho trùng tự loại.

kehotro
12-05-2010, 12:45 AM
3. BỆNH PHONG YÊU

Bệnh sanh ra do chữ thứ 2 và chữ thứ 7 trùng thanh độ.
Thí dụ:
Để bụng phải đeo điều nhẹ nặng
Ôm tai mặc quách tiếng chê khen
(Trần Tế Xương)

In sáo vẽ cho thằng mặt trắng
Bẻ cò tính lại cái lương vàng
(Nguyễn Khuyến)

Văn tự viết cho thiên hạ giữ
Tính danh ghi để thế gian coi
(Quán Vinh)

Cầm lái mặc ai lăm đỗ bến
Giong lèo thây kẻ rắp xuôi ghềnh
(Hồ Xuân Hương)

Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá lá chen hoa
(Bà Huyện Thanh Quan)

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
(Bà Huyện Thanh Quan)

Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Đến nay thắm thoát mấy tinh sương
(Bà Huyện Thanh Quan)

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
(Nguyễn Khuyến)

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
(Nguyễn Khuyến)

Bệnh Phong Yêu Hạc Tất trong thơ Thất Ngôn không mấy ai lưu tâm, trừ những người chuộng thanh vận, vì chỉ là "bệnh ngoài da" không có ảnh hưởng bao lăm đến thi nhạc. Như đọc những câu thượng dẫn, chúng ta nghe không đến nỗi chói tai. Và những câu mà chữ thứ 2 và chữ thứ 7 đều là đoản bình thanh, nếu đặt trước chữ 2 hay chữ 7 một chữ trường bình thanh, thì thanh âm của câu thơ trở nên hoàn toàn hài mỹ.
Thí dụ:
Bình tước mặc tranh treo trước án
Cầu ô sẵn nhịp bắc ngang sông
(Trần Tế Xương)

Gương nọ toan soi cho đẹp mặt
Phấn kia không lẽ nỡ dồi chân
(Trần Tế Xương)

Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng
Ngàn thu rạng tiết gái Giang Đông
Tôn Thọ Tường)

Bệnh tuy nhẹ, nhưng nếu tránh được thì càng hay, chúng ta nên tránh nhất là trong những câu có vần. Hễ chữ thứ 7, chữ hạ vần, là đoản bình thanh, thì chữ thứ 2 nên dùng trường bình thanh. Hễ chữ thứ 7 là trường thì chữ thứ 2 nên đoản. Đừng nên dùng trường thanh cả hai nơi. Nếu hai nơi đều là đoản thanh thì nên dùng một trường bình thanh ở trước nơi nầy hoặc nơi kia, như trên đã nói. Như thế là ổn. Trường bình thanh cũng cứu được khỏi bệnh trong những câu lẻ mà chữ 2 và chữ 7 trùng thanh độ về Thượng, Khứ, Nhập, như câu "Cầm lái... bến".

kehotro
12-05-2010, 12:46 AM
4. BỆNH HẠC TẤT

Bệnh hạc tất sanh ra ngay trong từng câu thơ Thất Ngôn.
Bệnh danh xuất phát từ chữ thứ 4, là chữ mà làng thơ gọi là hạc tất nghĩa là đầu gối chim hạc.
Chữ thứ 4 và chữ thứ 7 trùng thanh độ là bị bệnh hạc tất.
Thí dụ:
Nghe lời phi pháp tai làm điếc
Nghĩ nỗi nhân tình ruột lại đầy
(Khuyết danh)

Nghĩ câu năm nọ như ngày nọ
Nhớ đến bao giờ khóc bấygiờ
(Cựu thần nhà Lê)

Đã từng tắm gội ơn mưa móc
Cũng phải xênh xang hội gió mây
(Nguyễn Công Trứ)

Trăng thanh gió mát là tương thức
Nước biếc non xanh ấy cố tri
(Nguyễn Bỉnh Khiêm)

Đầu trò tiếp khách trầu không có
Bác đến chơi đây ta với ta
(Nguyễn Khuyến)

Từng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
(Nguyễn Khuyến)

Bệnh hạc tất cổ nhân cũng ít lưu ý. Có nhiều câu đọc nghe chướng tai mà vì chuộng ý thú hơn thanh vận, nên được nhiều người đề cao. Như câu thơ của Đỗ Phủ:
Ba phiêu cô mễ trầm vân hắc
Lộ lãnh liên phòng trụy phấn hồng
(Sóng trôi lúa cô mễ làm chìm sắc đen của mây
Móc lạnh gương sen làm rụng màu hồng của phấn)

Câu "Lộ lãnh liên phòng trụy phấn hồng" cũng như câu "Nhớ đến bao giờ khóc bấy giờ", giọng thơ nghe gãy cúp. Thế mà Diệp Mộng Đắc đời Tống khen câu thơ của Đỗ Phủ là "Hàm cái càn khôn" nghĩa là ngậm che cả trời đất, và Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu khen câu thơ của cựu thần nhà Lê là "ảm đạm trầm thống, văn chương do ở chí tình, khiến người sau mấy trăm năm, còn muốn chung một giọt nước mắt".

Câu của Nguyễn Bỉnh Khiêm "Trăng thanh gió mát... Nước biếc non xanh...", đọc nghe như bị ngút hơi mà Tản Đà cũng khen là "Tuy chưa thần tiên, cũng đã thanh cao đến tuyệt vậy".
Diệp Mộng Đắc và Tản Đà nặng về tánh tình mà nhẹ về thanh điệu. Nếu là những người theo chủ trương âm nhạc trước hết thì mấy câu kia chắc không lọt tai Chu Lang.

Và cũng như bệnh phong yêu, bệnh hạc tất do 2 chữ thuộc đoản bình thanh gây nên, thì chỉ đưa vào câu thơ một chữ trường bình thanh thay cho chữ thứ nhứt hoặc chữ thứ ba hoặc chữ thứ bảy thì nguyên nhân phát sinh ra bệnh bị hóa giải ngay.

Phong yêu và hạc tất là hai bệnh thuộc về thanh. Trong bài nói về điệp thanh khuyên chúng ta tránh phạm lỗi "điệp thanh" chính là để tránh hai bệnh phong yêu và hạc tất nầy đó.
Trong bài nói về "điệp âm" và "điệp vận" khuyên nên tránh phạm hai lỗi nầy là để khỏi phải mắc những bệnh Bằng Nữu, Chánh Nữu là bệnh điệp âm và đại vận. Tiểu vận là bệnh điệp vận. Khuyên tránh trước rồi mới nói bệnh sau là cốt ý tránh gieo ấn tượng về bệnh mà xưa nay đã bị nhiều người đả kích.
Trong khi nói về bệnh, những điều đã nói được lập đi lập lại, hoặc khai triển thêm những điều mới nói đại lược, để cho các bạn thêm thấm nhuần, hầu có thể đi đến diệu xử của thanh vận.

kehotro
12-05-2010, 12:47 AM
Đọc thêm!

Khi họa thơ Đường luật thì trước nhất là phải làm một bài thơ Đường luật cho đúng niêm luật và thật chỉnh đối, đó là điều căn bản bắt buộc. Tiếp theo là phải theo những nguyên tắc sau đây:

1. Hoạ vận, hay họa tá vận (mượn vần): người họa chỉ sử dụng lại 5 chữ vần của bài thơ xướng rồi muốn viết gì thì viết, miễn là làm lại một bài thơ Đường luật mà thôi. Họa vận thì có ba cách:

a. Họa nguyên vận: giữ theo thứ tự các chữ vần trong bài xướng (1, 2, 4, 6, 8).
b. Họa đảo vận: đảo ngược lại thứ tự các chữ vần trong bài xướng (8, 6, 4, 2, 1).
c. Họa hoán vận: sắp xếp lại thứ tự các chữ vần theo ý mình, miễn là đủ năm chữ vần của bài xướng, thường là sắp xếp lại theo kỹ thuật về vần điệu mà bài xướng không đạt.

2. Họa luật: có hai cách là họa đồng luật và họa đối luật.

a. Họa đồng luật: bài xướng ở thể nào thì bài họa phải ở thể đó (chữ thứ hai của câu đầu trong bài xướng và bài họa cùng là bằng hay là trắc. Nói cách khác, cả hai bài xướng và hoạ đều cùng ở thể bằng hay cùng ở thể trắc giống nhau).
b. Họa đối luật: bài xướng ở thể nào thì bài họa phải ở thể ngược lại (bài xướng ở thể bằng thì bài họa phải ở thể trắc, và ngược lại).

3. Họa ý: ngoài họa vần, bài họa phải nói lên ý thuận hay ý nghịch với bài thơ xướng. Nếu bài xướng, nói về "cõi tiên" thì bài họa có thể hoặc nói theo ý hay ngược lại ý của bài xướng về "cõi tiên" đó; hoặc nói lên một "cõi" khác tương tự hoặc ngược lại với "cõi tiên", chứ không có quyền họa lại bằng một bài mà chủ đề là "ăn nhậu" hay "ghen tương", chẳng hạn.

4. Họa chữ: bài xướng dùng địa danh, nhân danh, chữ kép, chữ đơn, danh từ, động từ, thành ngữ, điệp ngữ ... thì bài họa cũng phải dùng tương đương.

Một bài họa hay nhất là hội tụ được cả bốn điểm nêu trên (vần, luật, ý, chữ) thường gọi là "họa phóng vận".

Có một sự ấn định rất gắt gao cho bài thơ họa, mà từ xưa đến nay vẫn có người vấp phải, đó là luật "khắc lục" (chữ thứ sáu trong các câu có vần 1, 2, 4, 6, 8 của bài họa không được dùng trùng lại chữ thứ sáu trong các câu ấy của bài xướng).

Nếu họa đúng cách như trên thì các bài họa khó có những ý thơ độc đáo nhưng sẽ thăng hoa trí tuệ hơn (vì phải tuân theo rất nhiều luật lệ khắt khe mà vẫn làm ra được một bài thơ Đường luật hoàn chỉnh).
Bởi vậy người ta nói: "Thơ Đường Luật là thơ của trí tuệ !".