View Full Version : Đại Việt Sử Thi - Hồ Đắc Duy
phale
20-04-2010, 11:07 PM
ÐẠI VIỆT SỬ THI
HỒ ÐẮC DUY
QUYỂN I
CHƯƠNG MỞ ÐẦU
Dân tộc ta từ ngày dựng nước
Giòng sử thiêng đã được viết ra
Hằng nghìn năm trước trôi qua
Ðất đây đã có quốc gia Việt Thường
THỜI ÐẠI HỒNG BÀNG
(2879 - 257 TCN)
Vua Thần Nông vốn giòng Lạc Việt
Cháu : Ðế Minh . Nối nghiệp vua ban (2879 TCN)
Rừng xanh, Ngũ Lĩnh chiêm quan
Phương Nam chọn đất , cưới nàng Vụ Tiên
KINH DƯƠNG VƯƠNG - XÍCH QUỶ
Với mỹ nhân xe duyên kết tóc
Sinh ra đời Lộc Tục hoàng nam
Cắm lều, dựng trại, chiêu dân
Ðặt tên Xích Quỷ giang sơn một vùng
Kinh Dương Vương xưng hùng một cõi
Ðất nước dài một giải mênh mông
Kết hôn con gái Thần Long
Sinh ra Sùng Lãm nối dòng Vương gia
LẠC LONG QUÂN
Lạc Long Quân có bà vợ trẻ
Nàng Âu Cơ diễm lệ thướt tha
Bà sinh một bọc trứng ngà
Một trăm trứng nở thành ra trăm người
Ði theo cha, năm mươi về tới
Bỏ núi rừng ra mãi Biển Ðông
Mẹ cha dòng dõi : Tiên , Rồng
Như rừng với biển khó lòng cùng nhau
HÙNG VƯƠNG - VĂN LANG
Mãi về sau, Long Quân chọn được
Ðất Phong Châu khí vượng kinh đô
Văn Lang lập quốc bấy giờ
Hùng Vương xưng đế, cõi bờ tuần tra
Nước Văn Lang, nhìn ra Ðông Hải
Ðộng Ðình Hồ ở mãi Bắc phương
Bờ Tây : Ba Thục chắn đường
Phía Nam giáp nước Hồ Tôn của Chàm
Chia đất nước ra làm mấy bộ
Lấy Văn Lang làm chỗ trung quân
Việt Thường, Ninh Hải, Cửu Chân
Hoài Hoan, Giao Chỉ, Bình Văn, Dương Tuyền
Miền Vũ Dịch, Chu Diên, Cửu Ðức
Miềạn Tân Hưng, Phúc Lộc, Vũ Ninh
Ngoài xa Lục Hải mấy thành
Bên trong Lạc Tướng vây quanh bên ngài
Người Bách Việt chen vai sát cánh
Sống quây quần bên nhánh sông Lô
Ðất, rừng trù phú trời cho
Dân chuyên nông nghiệp, rành đồ gốm nung
Nền Văn Hóa Ðông Sơn rực rỡ
Chế Trống Ðồng dùng ở khắp nơi
Khai sinh tục vẽ trên người
Xâm mình để tránh các loài dưới sông
Vào cuối đời Vua Hùng thứ sáu
Phù Ðổng hương có cậu con trai
Lên ba chẳng nói chẳng cười
Nghe tin giặc đến liền đòi sứ vô
Tâu Hoàng Thượng : Xin cho thảo tặc
Sẽ đánh nhừ tan tác giặc Ân
Xin đúc ngựa sắt roi thần
Ðể làm vũ khí đánh quân bạo tàn
Rồi vươn vai, xua tan lũ giặc
Xong quay về đến đất Sóc Sơn
Áo nhung bỏ lại bên đường
Dấu chân Phù Ðổng Thiên Vương nay còn
Ðời Thành Vương, vua sai đem lễ (1062 TCN)
Biếu nhà Chu : Bạch trĩ vũ mao
Mở đầu hai nước bang giao
Chu công đáp lại , xe trao đưa về
Nàng Mị Nương muôn bề sắc sảo
Trai Thục bang kỉnh báo cầu thân
Vua Hùng hỏi ý quần thần
Xét rằng bên Thục mười phân đáng ngờ
Việc hôn nhân chẳng qua là tính
Dùng mưu ngầm kiêm định Văn Lang
Vua Hùng đã biết ý gian
Lựa lời từ chối Thục Vương việc này
Lại treo bảng kén tài phò mã
Ai nhanh chân sẽ gả Mị Nương
Sơn Tinh sớm, được hưởng hương
Chậm chân chàng Thủy đau thương hận thầm
Thủy Tinh thề , mổi năm làm lụt
Ra oai thần mưa trút nước dâng
Thục Vương xấu hổ còn hơn
Dặn cho con cháu quyết tâm trả thù
THỜI ÐẠI NHÀ THỤC (257 - 208 TCN)
AN DƯƠNG VƯƠNG ÂU LẠC
Năm Giáp Thìn (257TCN) bấy giờ Thục Phán
Xâm lấn dần địa phận Văn Lang
Tự xưng hiệu An Dương Vương
Kinh đô đóng ở Việt Thường Phong Khê
Bỏ quốc hiệu Văn Lang ngày trước (257TCN)
Ðổi ra thành Âu Lạc từ đây
Tính theo năm tháng đến rày
Hăm bảy thế kỷ , kế thay vua Hùng
Ðời cuối cùng của giòng Hồng Lạc
Tính ra là mười tám Hùng Vương
Trải bao điền hải tang thương
Ðến nay Thục Phán chiếm luôn riêng mình
Chọn được chỗ lương điền đất tốt
Vua cho người động thổ khởi công
Cổ Loa thành gọi Tư Long
Xoay theo xoắn ốc từ trong ra ngoài
Thành Tư Long xây hoài chẳng được
Thần Kim Quy bày chước trừ ma
Dặn rằng dù có can qua
Linh Quang, Kim Trảo, móng ta cho người
Cổ Loa thành bời bời dũng khí
Tường thì cao, hào rộng lại sâu
Giang sơn Vua Thục từ sau
Linh Giang Nam Bắc đối đầu Trung Hoa
Tần Thủy Hoàng làm vua Trung Quốc
Cho Nhâm Ngao đất được một miền (214TCN)
Triệu Ðà giữ trấn Long Xuyên
Phía Nam Thiên Ðức thuộc quyền Thục Vương
Ðất Nam phương lăm le muốn lấy
Ðã mấy lần thất bại mưu sâu
Sai con Trọng Thủy sang hầu
Làm quan Túc Vệ, bắc cầu thông gia
Chàng Trọng Thủy nghe cha đánh cắp
Lấy nỏ thần bẻ gập làm đôi
Âm thầm để tạm một nơi
Ðánh lừa vua Thục và người chung quanh
Cuộc chiến tranh về sau xảy đến
Cứ tưởng rằng nỏ vẫn chỗ xưa
Ðến khi lâm trận nhà vua
Mới hay kẻ cắp đã đưa đi rồi
Giặc đuổi gấp, bén sau chân ngựa
Tới đường cùng núi Dạ chắn ngang
Thục Vương ngửa mặt mà than
“Nỏ thần vô dụng, Rùa thần cứu ta”
Rùa hiện ra, nhìn vua rối gắt :
“Kẻ ngồi sau là giặc biết không ?”
Mị Châu tình đã nặng lòng
Rắc đường lông ngỗng để chồng tìm theo
Vua quay lại, chém vèo một nhát
Nàng đã ra cái xác không hồn
Từ đây triều Thục mất luôn
Năm mươi năm chẵn chỉ còn vết lông (257-208TCN)
Ðất Phiên Ngung vốn giòng Chân Ðịnh
Vua Triệu Ðà thôn tính Lĩnh Nam
Là người quỷ quyệt, mưu thâm
Ðã từng hỏi thử : “Ta bằng Lưu Bang ?”
THỜI ÐẠI NHÀ TRIỆU (207 - 111 TCN)
ÂU LẠC TRIỆU ÐÀ (VŨ ÐẾ) 207 - 137 TCN
ở ngôi 71 năm
Nam Việt Vương Triệu Ðà xưng đế (207TCN)
Năm Mậu Ngọ làm lễ lên ngôi
Giang sơn hùng cứ một thời
Cất quân chiếm lấy đất ngoài Trường Sa
Ðánh Ngô Nhuế chạy xa khỏi đảo
Nơi biên thùy tiến thảo viễn chinh
Quyền uy riêng một triều đình
Dùng cờ Tả đạo xưng quyền đế quân
Triệu Vũ Ðế thâu dần đất nước
Ở phía Nam tới được Việt Thường
Bắc Phương thì đến biên cương
Cùng người Trung Quốc vạch đường phân ranh
Hán Văn Ðế trị bình cường thịnh (179 TCN)
Sai người vào Chân Ðịnh tìm ra
Mộ phần, gia tộc Triệu Ðà
Sửa sang miếu mạo mấy tòa cung lăng
Kể từ đó, hai phương giao hảo
Hán và Ðế xếp giáo lui binh
Bàng dân thiên hạ yên tình
Nước nhà thịnh trị thanh bình cả hai
VĂN VƯƠNG (137 - 125 TCN)
ở ngôi 12 năm
Cháu là Hồ, con trai Trọng Thủy
Nối ngôi vua, Vũ Ðế trao cho
Văn Vương học đạo Thuấn Nghiêu
Lấy nhân lễ nghĩa làm điều trị dân
Mân Việt Vương cho quân xâm lấn
Nam Việt xưa thuộc Hán từ lâu
Kiến Nguyên sai tướng vào chầu
Giúp giùm Nam Việt, kết nhau lúc này
Lời giao ước chung tay chống giặc
Giữa hai miền Nam Việt - Trung Hoa
Nếu khi gặp việc can qua
Thì cùng hợp sức để mà cứu nhau
Vì Văn Vương ơn sâu cầu cạnh
Cho nên Vua bàn tính thiệt hơn
Sai người sắm sưả đưa con
Ðem qua nhà Hán để làm con tin
Triệu Văn Vương ngồi trên gần được
Mười hai năm nối nghiệp Triệu Ðà (137 - 125 TCN)
Anh Tề lúc trước cho qua
Nay quay trở lại thay cha trị vì
phale
20-04-2010, 11:34 PM
MINH VƯƠNG 125 - 113 TCN)
ở ngôi 12 năm
Mới vừa về, lên ngôi Thiên tử (124 TCN)
Triệu Minh Vương đã phụ lòng tin
Bỏ trưởng, lập thứ lòng riêng
Phong Cù Hoàng hậu gây thêm bất hòa
Mất kỷ cương quốc gia phân hóa
Phép nước suy mối họa gần bên
Vợ thì dâm loạn chuyên quyền (112 TCN)
Con còn bé bỏng đưa lên trị vì
Hán Nguyên Ðỉnh tính bề xâm lược
Sai Ngụy Thần dùng chước gián ly
Khi dụ dỗ, lúc răn đe
Khuyên vua phiên thuộc theo về Bắc Phương
AI VƯƠNG (113 - 112 TCN)
ở ngôi 1 năm
Triệu Ai Vương sức hèn tuổi trẻ
Thái hậu là một kẻ trăng hoa
Giữa triều Tể Tướng Lữ Gia
Vì dân can gián nhưng bà chẳng nghe
THUẬT DƯƠNG VƯƠNG (112 - 111 TCN)
ở ngôi 1 năm
Lữ Gia vì nước nhà họ Triệu
Vung thước gươm kết liễu Ai Vương
Lập con trưởng của Minh Vương
Tên là Kiến Ðức, Thuật Dương Vương hầu
Không bao lâu, biết vua bị giết
Nguyên Ðỉnh bèn thừa dịp ra tay
Phiên Ngung sắp đặt mấy ngày
Mùa Ðông Canh Ngọ bao vây thành trì (111 TCN)
THỜI ÐẠI BẮC THUỘC NHÀ TÂY HÁN
(110 - 39 SCN)
Nước suy vi, dân tình ta thán
Tổ quốc chừ quân Hán cướp đi
Ðất phân chín quận , giặc chia
Ðặt quan cai quản, sau khi giết người
Ðất Lĩnh Nam từ thời lập quốc
Ðến bây giờ lại mất vào tay
Nước ta Bắc thuộc từ rày (110 TCN)
Giặc gây thảm cảnh đọa đày nhân dân
Ðặt đất Nam làm đô hộ phủ
Thạch Ðái là thứ sử Giao Châu
Tích Quang văn hóa thâm sâu
Tiếp theo Tô Ðịnh tham giàu bạo quan (110 TCN - 39)
Ở Giao Chỉ người dân còn nhớ
Công của người Thái Thú Nhâm Diên
Dạy ta cày cấy canh điền
Tỏ lòng tưởng niệm lập đền khói nhang
Thời Tây Hán lầm than khốn đốn
Suốt thời gian trăm bốn chín năm (149)
Bao nhiêu uất hận hờn căm
Thêm tên Tô Ðịnh tham tàn hại dân
THỜI ÐẠI TRƯNG NỮ VƯƠNG - TRƯNG VƯƠNG 40 - 43 ở ngôi 3 năm
Hai Bà Trưng con quan Lạc tướng
Quê Phong Châu thuộc huyện Mê Linh
Trưng Trắc đến tuổi trưởng thành
Cùng chàng Thi Sách, kết tình phu thê
Thù Tô Ðịnh lắm bề hà khắc
Lại giết chàng Thi Sách tướng quân
Tham tàn một lũ bất nhân
Ðọa đày thiên hạ muôn phần đớn đau
Thù Tô Ðịnh không sao kể xiết
Cùng với em thề quyết một lòng
Nam nhi đánh với quần hồng
Ðể coi nhi nữ vẫy vùng thử xem
Bà Trưng Trắc cùng em Trưng Nhị
Phất cờ đào quyết chí trừ gian
Thù chồng không trả nào cam
Nước còn nô lệ chẳng kham lao tù
Vua nhà Hán, khởi từ năm Sửu (41)
Cho Phục Ba sang cứu Phong Châu
Lưu Long, Phù Lạc phong hầu
Ðặt làm phó tướng dẫn đầu tiến binh
Ở Mê Linh, cùng dân cả nước
Ðể sẵn sàng chặn bước xâm lăng
Cửu Châu , Hợp Phố , Nhật Nam
Thanh Trì , Nam Hải , Lĩnh Nam theo về
Lệnh phát đi, đánh nhanh rút gọn
Dụ giặc vào chia mỏng địch quân
Kẻ thù như nước đang dâng
Ào ào tiến đến đã gần Tây Nhai
Trước thế giặc như loài lang sói
Sợ quân mình khó nổi đánh nhau
Vua bà ra lệnh lùi sâu
Vào vùng cứ địa, đào hào cắm chông
Trận khởi đầu giết xong Hàn Vũ
Giết tên này ở chỗ Tây Nhai
Trăm quân giặc chết trận này
Khiến cho Mã Viện phải thay ý đồ
Vượt sông Hồng thừa cơ đánh úp
Lịnh Hai Bà : Tạm chớ giao tranh
Bảo toàn lực lượng để dành
Cấm Khê đợi lịnh, đánh nhanh bất kỳ
Giặc biết ý cho đi từng đội
Lấn chiếm dần không vội ra quân
Binh ta đánh chậm, cầm chân
Ðiều quân đại chiến ở gần Hát Giang
Dưới lọng vàng, trên đầu voi chiến
Bóng hai bà ẩn hiện trong sương
Cờ đào phấp phới hiên ngang
Quần thoa nhi nữ mỡ đường tiến quân
Sau một trận giao tranh ác liệt
Sa cơ đành tuẫn tiết hy sinh
Hát Giang nước biếc gieo mình
Ơn đền nợ nước, tình riêng với chồng
Hai Bà Trưng một lòng với nước
Vì cơ đồ vị quốc vong thân
Trăm năm nước chảy đá mòn
Vẫn còn in lại dấu chân vua Bà
Năm Quý Mão hai bà tuẫn tiết
Trước mười năm ở tít Trung Ðông (43)
Chiên con là chúa Hài Ðồng
Chết trên thánh giá vì lòng độ nhân
Rút về Nam, Ðô Dương vào núi
Cố tìm đường đánh đuổi Hán quân
Nghĩa binh Chu Bá theo chân
Mấy năm kháng chiến yếu dần tiêu hao
“Cột Ðồng gãy thì Giao Châu diệt”
Là lời thề tướng giặc ghi đây
Phục Ba đúc, dựng cột này
Cổ Lâm dấu tích đến nay khó tìm
THỜI ÐẠI BẮC THUỘC NHÀ ÐÔNG HÁN
(43 -226)
Quân Ðông Hán gọng kềm siết chặt
Trị dân Nam mặc sức giam cầm
Tha hồ vơ vét, tham lam
Cướp theo của cải bạc vàng mang đi
Những Thái Thú người Di, người Hán
Rất nhiều tên tán tận lương tâm
Làm quan đâu được vài năm
Vén thu lông trĩ, kỳ nam đem về
Năm Canh Tuất (190) Man Di Nam Chiếu
Quy tụ người ở đạo Nhật Nam
Cũng như dân ở Tượng Lâm
Lập nên nước mới là Chàm hiện nay
Nước Lâm Ấp tôn ngay thủ lĩnh
Là Khu Liên thống lĩnh toàn dân
Về sau đổi lại Hoàng Vương
Ðất đai khai phá mở mang xuống dần
Hán Trung Bình vào năm Giáp Tý (184)
Giao Lý Tiến quản lý Giao Châu
Rồi sai Sĩ Nhiếp về sau
Phong chức Thái Thú cầm đầu từ đây
THỜI ÐẠI BẮC THUỘC NHÀ ÐÔNG NGÔ 226 - 280
Sĩ Nhiếp người Vấn Dương, nước Lỗ
Cuối năm Dần đầu với Ngô Vương
Tôn Quyền cho gửi thư sang
Giữ nguyên chức tước, phong hàm Tướng Quân
Quân xâm lược dần dần áp đặt
Lấy luật Tàu ép bắt dân ta
Ðổi thay phong tục đã qua
Lâu ngày đồng hóa, dần dà diệt luôn
Năm Bính Dần nữ vương Triệu Ẩu (246)
Dấy dân quân chiến đấu diệt Ngô
Núi Nưa tụ nghĩa dựng cờ
Giết viên thứ sử nhà Ngô đương thời
phale
20-04-2010, 11:38 PM
THỜI ÐẠI TRIỆU THỊ TRINH
248 - 248 ở ngôi 1 năm
Triệu Thị Trinh là người nhan sắc
Cùng anh là Quốc Ðạt cầm quân
Lệnh Bà sức khỏe đang xuân
Cỡi đầu voi dữ diệt quân bạo tàn
Trong Núi Nưa, nuôi quân dạy tướng
Cờ mao dùng khiển tướng điều binh
Khiến cho giặc phải rùng mình
Tôn Quyền biệt phái sai Hành Dương sang
Triệu Trinh nương linh hồn chiến đấu
Trước ba quân tả hữu giáp vàng
Dân tôn “Lệ Hải Bà Vương”
Tên Bà nghe đến kinh hoàng giặc Ngô
Chúa Ðông Ngô mưu mô quỷ quyệt
Nhưng lệnh bà quyết diệt ngoại bang
Ðánh cho Lục Dận kinh hoàng
Ðánh cho quân giặc hết đường rút lui
Ðất Mỹ Hóa là nơi tử chiến
Giặc xếp hàng Phú Ðiếu chôn thây
Ngô vương chiến thuật đổi ngay
Dằng dai phản kích đêm ngày cầm chân
Lũ Giặc Ngô lâu dần trụ vững
Chiếm từ từ dân chúng chung quanh
Bà Triệu rút bỏ khỏi thành
Nghĩa quân kiệt sức nên đành bại vong (248)
Dòng sông Lương binh không thấy bóng
Dáng Nhụy Kiều nữ tướng năm nao
Phất phơ một ngọn cờ đào
Sơn hà phút chốc lọt vào ngoại bang
QUYỂN HAI
THỜI ÐẠI BẮC THUỘC 227 - 540
NHÀ NGÔ - TẤN, TỐNG TỀ LƯƠNG
Ðất Giao Châu tách làm hai phía (264)
Phần phương Nam Giao Chỉ đặt tên
Tấn - Ngô , nhị quốc tranh quyền
Ðất vùng thuộc địa rối ren tơi bời
Lúc Ðông Ngô, lúc đời nhà Tấn
Lũ cầm quyền, tán tận lương tâm
Dân ta đói rách lầm than
Dưới ách nô lệ ngoại bang bấy giờ
Ông Ðào Hoàng phong cho hầu tước
Khi Tấn triều cướp được Giao Châu (271)
Cầm quyền cũng được khá lâu
Bốn đời thứ sử nối nhau kế thừa
Quân xâm lược dù Ngô hay Tấn
Tống Lương Tề cũng vẫn ác ôn
Ngày càng bóc lột nhiều hơn
Thu gom của cải để làm của riêng
Bọn quan lại tranh quyền giành chức
Giết lẫn nhau cưỡng bức nhân dân
Như tên Lương Thạc, Lư Tuần (322)
Như tên Lý Tốn, Trường Nhân bấy giờ (380)
Phạm Hồ Ðạt làm vua Lâm Ấp (399)
Cất quân vào đánh đất Nhật Nam
Tràn qua tiến chiếm Cửu Chân
Giao Châu thôn tính bàn hoàn Tấn Vương (413)
Hai năm sau Hoàn Vương đánh tiếp (415)
Vào Giao Châu cướp giết dã man
Bắt theo vô số dân thường
Ðem về Phật Thệ để làm tù binh
Chúng đốt thành phá tan nhà cửa
Hủy kho tàng phóng lửa đốt dinh
Cửu Chân thiên hạ rùng mình
Dã man tàn bạo, dân lành ngả nghiêng
Viên thứ sử đương quyền tráo trở
Dụ Hoàng Vương vào chỗ nghi binh
Ra tay tốc chiến thình lình
Giết ngay Hồ Ðạt đuổi binh khỏi thành
Phạm Dương Mại nhân danh Lâm Aãp (432)
Xin cai quản phần đất Giao Châu
Tống vương xuống chiếu phê vào
Rằng không chấp thuận yêu cầu của y
Năm Bính Tý (436) Hòa Chi khởi đánh
Giết Phù Long tướng lãnh Chiêm Thành
Tấn công tiến chiếm thật nhanh
Tiến vào Tượng Phố là kinh đô Chàm
Ở Nhật Nam giặc không quấy rối
Thời Hoàng Vương suy thoái dần dần
Lâm Aãp, Nam Chiếu là dân
Không còn đáng sợ như lần trước đây
Bọn quan lại lũ người gian ác
Lo làm giàu đi cướp của dân
Như tên Lưu Bột , Trường Nhân
Như là Lưu Khải tham quan đương quyền
Bọn Phương Bắc triền miên cướp bóc
Hại dân lành xúi dục man di
Ðiêu tàn non nước suy vi
Long dân mong ngóng những vì cứu tinh
NHÀ TIỀN LÝ (541 - 547)
LÝ NAM ÐẾ ở ngôi 7 năm
Ở Thái Bình tháng hai Tân Dậu (541)
Có một người hiểu thấu lòng dân
Ðó là Lý Bí tướng quân
Gióng cờ tống cổ giặc Lương bạo tàn
Ðặt quốc hiệu Vạn Xuân cho nước (544)
Dời đô về ở trước Long Biên
Người xưng Nam Ðế nguyên niên
Xây cung Vạn Thọ đặt nền móng cho...
Ðất Việt Thường cũng từ dạo đó
Có vương triều (544) phủ bộ trăm quan
Ðặt ra tướng võ, tướng văn
Ðịnh thêm luật lệ để ngăn lạm quyền
Cho Triệu Túc được làm Thái phó
Lấy Tinh Thiều vào chỗ tướng Văn
Phạm Tu đã có công ngăn
Giặc người Lâm Ấp, võ quan uy quyền
Nhà Lương sai Bá Tiên tư mã
Làm tiên phong đánh trả Giao Châu
Chu Diên, vua đánh phủ đầu
Dằng dai chống cự, năm sau vỡ thành (545)
Trận Gia Ninh , trận sông Tô Lịch
Cả hai bên truy kích lẫn nhau
Ðịch dùng mưu kế đánh mau
Lệnh vua cho rút ngỏ hầu dưỡng quân
Ðất Khuất Lạo, Tân Xương đóng tạm
Quân số còn hai vạn binh nguyên
Lại thêm ngàn lẻ ghe thuyền
Bổ sung binh lính dành riêng dự phòng
Hồ Ðiễn Triệt dàn quân phục kích
Ðánh cầm chân đợi địch hết lương
Nhằm khi chúng sắp cùng đường
Tốc thần vua sẽ đánh tràn một phen
Trần Bá Tiên, tướng quân của giặc
Khích quân mình đánh thật cho hay
Thời cơ nay đã đến tay
Lúc đầm ngập nước đánh ngay tức thì
Quân ta vỡ, rút về Khuất Lạo
Ðể sửa binh, gươm giáo quân lương
Tổ chức quân ngũ đàng hoàng
Chọn thêm tướng giỏi, bổ sung nhân tài
Vua cho vời Triệu Quang Phục đến (546)
Trao cho người ấn triện thay vua
Dân quân đất nước đang chờ
Dặn người giữ vũng cơ đồ cha ông
Triệu Quang Phục anh hùng dũng liệt
Ðiều khiển quân hiểu biết mọi đàn
Thế vua, ông nhận ngai vàng
Sửa sang binh mã chọn đường ra tay
THỜI ÐẠI TRIỆU VIỆT VƯƠNG -
TRIỆU QUANG PHỤC (548 - 570)
ở ngôi 30 năm
Triệu Việt Vương lên thay Nam Ðế
Ðất Vũ Ninh được kể lắm người
Anh hùng hào kiệt khắp nơi
Tụ về dưới trướng chen vai diệt thù
Ðầm Dạ Trạch ở Chu Diên huyện
Chọn gò cao huấn luyện dân binh
Bùn lầy bụi rậm vây quanh
Um tùm cây cỏ rừng xanh bạt ngàn
Dạ Trạch Vương đánh tan tướng giặc
Là Dương Sàn lấy đất Giao Châu
Năm trăm năm , lệ thuộc Tàu
Từ đây độc lập, nêu cao ngọn cờ
Kể từ giờ dân yên nước mạnh
Vùng cư dân ở cạnh Long Biên
Ðược mùa thóc lúa nhiều thêm
Diệt tan xâm lược chưa yên nội tình
Lý Thiên Bảo là anh Nam Ðế
Cùng một người họ Lý bôn ba
Trong khi giặc mới tràn qua
Vào đất Di Lạc xưng là Ðào Lang
Ðào Lang vương sau khi tạ thế
Lý Phật Tử kế vị chúa công
Tử xua quân xuống miền Ðông
Giành nhau với Triệu Việt Vương đất này
Tử là tay gian manh quỷ quyệt
Ðã năm lần chỉ biết thua đau
Nay dùng chước quỷ mưu sâu
Tìm ra diệu kế dắt nhau trá hàng
Xin cho con Nhã Lang gởi rể
Cài vào nhà để dễ đoạt ngôi
Việt Vương vốn tính thương người
Vô tình để hắn vào nơi thăm dò
Triệu Quang Phục chẳng lo chú ý (570)
Bị Phật Tử tìm kế giết đi
Cảo Nương vì quá đam mê
Nên cha phải chết bởi nghe lời chồng
HẬU LÝ NAM ÐẾ (571 - 602)
ở ngôi 32 năm
Lý Phật Tử tiếm xưng Nam Ðế
Lấy họ xưa là để lừa dân
Ô Diên, đô đóng mấy năm
Sau dời đô đến ở gần Phong Châu
Năm Nhâm Tuất vua Tàu sai tướng (602)
Là Lưu Phương Tổng Quản Quân Doanh
Ðưa quân uy hiếp kinh thành
Phật Tử quá sợ, trói mình hàng ngay
Tướng nhà Tùy cho người áp giải
Ðưa vua về giam tại Bắc Kinh
Nước ta nay lại trở thành
Là đất thuộc địa dưới quyền ngoại bang
phale
21-04-2010, 01:30 AM
THỜI ÐẠI BẮC THUỘC
NHÀ TÙY ÐƯỜNG (603 - 938)
Ðất Việt Thường , vào tròng lệ thuộc (603)
Quân Tùy Ðường lần lượt kéo sang
Dưới giày xâm lược ngoại bang
Nước non xơ xác hoang tàn thảm thương
Bọn Bắc phương đánh hơi thấy lửa
Nghe Lâm Aãp vàng quả thật nhiều
Lưu Phương được phái đem theo
Quân hơn một vạn vượt đèo đánh sang
Vua Phạm Chí chận đường đánh trả
Quân nhà Tùy bèn giả chạy thua
Ðột nhiên quay lại đánh vào
Trung quân phản kích làm vua chạy dài
Nhà Tùy mất, Ðường sai Ðạo Hựu
Sang Giao Châu phủ dụ Khâm Hòa
Là người khét tiếng điêu ngoa
Khâm Hòa Thái Thú xin qua chầu hầu (618)
Y cướp bóc trân châu ngọc quý
Khi về Tàu, làm lễ dâng lên
Ðịa đồ, sổ bộ tịch điền
Của dân Nam Việt không quên một vùng
Ðường Thái Tông đổi tên thành Phủ (622)
Xứ Việt Thường xưa gọi Giao Châu
Nay thì được gọi như sau
An Nam Ðộ Hộ thuộc Tàu từ đây
LÝ TỰ TIÊN ( 687 )
Quan cai trị mặc tay vơ vét
Của trong dân thu hết làm riêng
Có người tên Lý Tự Tiên
Hưng binh khởi nghĩa đứng lên diệt thù (687)
Vì lực ít, khó cơ chiến thắng
Bị giặc Tàu vây hãm đó đây
Về sau bị bắt, lưu đày
Quân tan, binh vỡ tiếc thay anh hùng
ÐINH KIẾN ( 687 )
Tướng của người là ông Ðinh Kiến (687)
Gom tàm quân quyết chiến tới cùng
Ðánh thành vây phủ tấn công
Giết tên Ðô hộ dẹp xong lũ này
Vua nhà Ðường cử ngay Tư mã
Tào Trực Tỉnh qua ngã Quế Châu
Phục binh giết Kiến trả thù
Cho tên Ðô Hộ bấy giờ tham lam
MAI HẮC ÐẾ (722)
Mấy trăm năm , mấy đời Bắc thuộc
Toàn dân ta trói buộc triền miên
Bọn quan nha lại đương quyền
Làm điều thất đức đảo điên lòng người
Khắp mọi nơi dân tình ta thán
Mong có người báo hận cho dân
May thay có bậc thánh nhân
Quê làng Mai Phụ, Thúc Loan tên ngài
Cả toàn dân đến nơi Can Lộc (713)
Một lòng trừ ngoại tộc Bắc Phương
Thề nay đánh đuổi giặc Ðường
Trừ quân xâm lược nhiễu nhương giống nòi
Năm Quý Sửu lên ngôi Cửu Ngũ (713)
Ngài là người đất cũ Hoan Châu
Thu về đất nước đã lâu
Bị Tàu đô hộ cất đầu không lên
Năm Giáp Dần (714) đuổi tên Ðô Hộ
Là Sở Khách ra khỏi Giao Châu
Từ đây sạch bóng quân thù
Toàn dâm mỡ hội khởi đầu kỷ nguyên
32 châu thu liền một mối
Một Vương quyền phục vụ cho dân
Ngoại giao các nước ở gần
Lâm Ấp, Chân Lạp, Kim Lân để cùng
Lập thế chung : Tìm đường giữ nước
Khai sinh ra chiến lược liên hoàn
Họp cùng các nước lân bang
Tạo thành sức mạnh sẵn sàng đấu tranh
Bốn mươi vạn dân binh các nước
Làm kinh hồn lũ cướp Bắc phương
Mười năm ròng rã vua Ðường
Vạch xong kế hoạch lên đường xuất quân
Dương Tư Húc làm quan Vệ Tướng (722)
Tiến quân vào theo hướng Phục Ba
Húc theo đường cũ đi qua
Từ Khâm Châu đến chỉ vừa một đêm
Trong thoáng chốc đã lềnh quân giặc
Ùa vào theo lối tắt đường sông
Quân ta bối rối vô cùng
Những nơi xung yếu lọt vòng bao vây
Mai Hắc Ðế rời ngay khỏi phủ
Rút vào rừng đánh trả địch quân
Binh lương , khí giới hao dần
Quân cùng lực cạn mười phần còn hai
Nước độc lập đã mười năm chẵn (712 - 722)
Ngài mất rồi nhưng vẫn còn đây.
Tiếc thuong không nói nên lời
Ðền Mai Hắc Ðế nơi người mệnh chung
BỐ CÁI ÐẠI VƯƠNG (761 - 802)
Ba quý tử con Phùng Hạp Khánh (767)
Vị tướng tài bên cạnh Thúc Loan
Những trang văn võ song toàn
Phùng Hưng anh cả lại càng oai phong
Vật ngã trâu, tay không bắt hổ
Uy danh kia sấm nổ gần xa
Hưng binh vì nước, vì nhà (766 - 780)
Anh hùng hào kiệt nghe qua theo về
Cờ khởi nghĩa lời thề vì nước
Quyết tâm giành cho được non sông
Giúp dân giải thoát khỏi vòng
Ðã từng nô lệ ở trong tay Tàu
Vì nô lệ phất cờ đại nghĩa
Ðánh tan tành khiếp vía ngoại xâm
Ðánh cho tướng giặc bàng hoàng
Ðánh cho tơi tả đầu hàng mới thôi
Cao Chính Bình sợ oai mà chết (791)
Giặc nhà Ðường kế hết cạn lương
Vẫn còn ngoan cố không hàng
Về sau dùng kế Anh Hàng mới xong
Dẹp giặc xong, làm vua trị nước
Ở trên ngôi vừa được bảy năm (782)
Một lòng vì nước vì dân
Khi ngài tạ thế nhân tâm sụt sùi
Ngài đã vì mệnh trời , quốc tổ
Dâng tôn ngai Bố Cái Ðại Vương
Cầm quyền giữ mối kỷ cương
Giúp dân bẻ gãy gông cùm ngoại bang
Con Phùng An thay cha kế nghiệp
Bị nhà Ðường uy hiếp đánh tan
Triệu Xương cai trị cử sang
Làm quan Ðô Hộ An Nam lúc này (791)
Nửa thế kỷ từ ngày mất nước (790 - 840)
Cứ mỗi lần, kẻ trước kẻ sau
Sang làm Thứ Sử Giao Châu
Tên nào cũng trở thành giàu có thêm
Tội cho dân lên rừng xuống biển
Mò ngọc trai, tìm kiếm ngà voi
Cong lưng tôi mọi cho loài
Ngoại bang xâm lược tác oai dân mình
phale
21-04-2010, 01:31 AM
DƯƠNG THANH ( 819 )
Năm Kỷ Hợi (819) Dương Thanh thứ sử
Người Giao Châu chiêu dụ dân quân
Phất cờ khởi nghĩa đánh tan
Giết Lý Tượng Cổ tham tàn hiếp dân
Mấy năm sau Dương Thanh tử trận
Người Nam Chiếu Hoàn Ðộạng kéo sang
Cùng đi có cả Hoàn Vương
Là vua Lâm ấp lên đường xâm lăng
NAM CHIẾU XÂM LĂNG ( 858 )
Năm Mậu dần, An Nam loạn lạc (858)
Khắp mọi nơi đói khát triền miên
Bên trong xã hội không yên
Cõi ngoài Nam Chiếu chiếm nguyên mấy vùng
Quân Nam Chiếu hung hăng xâm lấn
Ðuổi quân Ðường đến tận biên cương
Thành mất, tướng chết thảm thương
Giết ngay Sái Tập nhà Ðường năm sau (863)
Quân Nam Chiếu cầm đầu một cõi
Ðuổi giặc Ðường ra khỏi Giao Châu (863)
Ðặt viên Tư Tấn ngôi cao
Từ đây đất Việt thuộc vào người Man
Quân Nam Chiếu hai lần lấy đất
Ðường binh thua mất mật Hải Môn
Quan dân thất đảm kinh hồn
Vừa bắt vừa giết dễ hơn vạn người
Nhà Ðường sai Cao Biền sang đánh (846)
Với mưu đồ bình định Giao Châu
Chủ trương trấn áp làm đầu
Xây thành khẩn đất làm cầu giao thông
Năm Bính Tuất (866) xem xong dự án
Cao Biền cho đào móng sửa sang
La Thành xây mới khang trang
Nhà hơn bốn chục vạn gian để dùng
Ði một vòng gần hai nghìn trượng
Ðắp quanh thành một đoạn đê cao
Vọng lâu liên kết cùng nhau
Châu mai bốn mặt thêm vào phía trên
Lại đào kênh Thiên Vy lấy lối (867)
Ðể ghe thuyền lui tới thông thương
Về sau dân gọi Cao Vương
Cao Biền đã ở đất Nam mấy đời
Ðến năm Tý (880) lòng người không thuận
Bèn dấy lên tổng tấn công ngay
Ðuổi tên Tăng Cổn chạy dài
Lại thêm Nam Chiếu tác oai bên ngoài
Quân Nhà Ðường không ai cai quản
Chạy xô nhau kinh mạn bỏ thành
Nhắm đường Ung Quảng cho nhanh
Sau lưng để lại vô vàn binh lương
Thuở bấy giờ dân đang khổ ải
Một là do quan lại nhà Ðường
Hai là Nam Chiếu nhiễu nhương
Chúng cùng cướp bóc phá tan nước mình
Giặc hai bên mặc tình vơ vét (905)
Chúng tha hồ càn quét nhân dân
Núi sông mấy bận qua phân
Lòng người uất hận chỉ mong có ngày
KHÚC THỪA DỤ (906 -907)
Khúc Thừa Dụ vừa ngay khi ấy
Với danh gia nổi dậy cơ đồ
Một lòng vì nước mà lo
Cùng dân khởi nghĩa, đắp mô chiếm thành
Giặc giả phong “Ðồng Bình Chương Sự”
Kèm theo chức Tiết Ðộ Sứ quân
Dụ người mong được lòng dân
Dịu cơn phẫn uất của dân Việt mình(906)
Giặc biết đâu, người anh hùng ấy
Xoay thế cờ đoạt lấy thời cơ
Cùng dân giữ vững cõi bờ
Dễ dàng bẻ gãy ý đồ mưu thâm
KHÚC HẠO (907 - 917)
Mới ba năm mà người vội thác
Con : Khúc Hạo gánh vác lên thay (907)
Một trang anh kiệt nhân tài
Lấy dân làm gốc vạch ngay tỏ tường
Nhà cải cách kiếm đường phát triển
Từ nghèo nàn sẽ biến ấm no
Tổ chức quản lý phân cho
Từng châu, từng phủ phải lo chu toàn
Ðừng đầu Tỉnh là viên Quản Giáp
Giáp, chia thành từng xã nhỏ hơn
Lựa người lệnh trưởng khôn ngoan
Bình quân thế ruộng vuông tròn cho dân
Lấy an lạc, khoan dung, giản dị
Làm phương châm cai trị nhân dân
Cải cách hành chính dần dần
Quốc gia đổi mặt ngày càng thắm tươi
Khi tạ thế chọn người kế vị
Suốt đời vua chỉ nghĩ đến dân
Giữ cho đất nước hùng cường
Dân thêm giàu mạnh ngày càng mở mang
Ðể giang sơn ngày càng vững chắc
Phải đối đầu với giặc Bắc phương
Ngoại giao khôn khéo nhún nhường,
Sứ thần trao đổi bình thường với nhau
Nơi địa đầu giữ yên biên giáp
Với Chiêm Thành, Chân Lạp phương Nam
Phân chia ranh giới rõ ràng
Ðặt quân canh giữ sẵn sàng chặn ngay
KHÚC THỪA MỸ (917 - 923)
Khúc Thừa Mỹ lên thay Khúc Hạo (917)
Sai sứ thần sang báo vua Lương
Giữ tình giao hảo bình thường
Nhận cờ Tiết Việt tượng trưng Phiên thần (919)
Quân Nam Hán manh tâm chiếm đoạt
Lý Khắc Chính được cắt đem qua
Binh hùng tướng mạnh quân xa
Manh tâm chiếm lại nước ta bấy giờ
Năm Canh Dần kẻ thù Nam Hán (930)
Lấy đất đai ở quận Giao Châu
Ðại La, Hoan , Ái thu vào
Cất quân mấy vạn đánh vào Champa
Thứ sử mới tên là Lý Tiến
Ðược điều sang trợ giúp việc quân
Nhưng mà thế giặc đã tàn
Ðại La giữ được mấy phần chung quanh
Ở Dương Xávang danh Bộ Tướng
Người họ Dương hào trưởng năm xưa
Ba ngàn quân sẵn phòng ngừa
Phất cờ khởi nghĩa diệt chừa ngoại xâm
Dương Ðình Nghệ phá tan bọn giặc
Ðuổi thứ sử vây bắt tàn quân
Giết thêm Trần Bảo hung thần
Tự xưng Tiết Ðộ Sứ Quân cầm quyền
DƯƠNG ÐÌNH ( Diên) NGHỆ (931 - 938)
Dương Ðình Nghệ giữ yên đất nước
Coi binh quyền mới được bảy năm
Thì tên Nha Tướng gian thâm
Là Kiều Công Tiễn manh tâm hại người (937)
Ham địa vị giết ngay chủ cũ
Công Tiễn kia dạ thú lòng lang
Cũng vì ham chức, làm càng
Rước quân ngoại tộc phá tan cơ đồ
phale
21-04-2010, 08:00 AM
Quyển 3
Ngô Quyền
(938-944) đến Ngọa Triều (1009)
• NGÔ QUYỀN (938-944) • DƯƠNG BÌNH VƯƠNG (945-950) • HẬU NGÔ VƯƠNG (951-965) • LOẠN SỨ QUÂN (966) • ĐINH BỘ LĨNH (968 -980) • ĐINH PHẾ ĐẾ (979 - 980) • ĐẠI HÀNH HOÀNG ĐẾ (980 - 1005) • TRUNG TÔNG HOÀNG ĐẾ (1005) • NGỌA TRIỀU HOÀNG ĐẾ (1005 -1009)
NGÔ QUYỀN (938-944)
Tính kể từ đầu năm Mậu Tuất (938)
Đất nước ta quả thật rối bời
Lăm le Nam Hán bên ngoài
Bên trong nội loạn lòng người oán than
Đất nước chìm trong cơn nguy biến
Vua Nam Hán muốn chiếm nước ta
Sai con Hoằng Tháo đem qua
Binh hùng tướng mạnh để mà xâm lăng
Chúa Nam Hán chiếu ban mũ áo
Cho Vạn Vương Hoằng Tháo tiên phuông
Cử thêm binh mã lên đường
Chiến thuyền theo hướng Bạch Đằng tiến vô
Còn riêng y, đóng đô Bác Bạch
Ở Hải Môn ứng trực sẵn sàng
Nghe tin quân giặc tràn sang
Ngô Quyền gấp rút chặn đường , đánh ngay
Trước giết Tiễn , sau bày thế trận
Sông Bạch Đằng dụ chúng tiến sâu
Cọc ngầm từng khoảng cách nhau
Đợi khi nước lớn trên bàu đổ ra
Thuyền của ta nhấp nhô mặt sóng
Tháo tức mình nổi trống tiến quân
Đuổi theo sát khí đằng đằng
Quân ta giả chạy, theo giòng nước xuôi
Rồi đột nhiên ta quay phản kích
Khi nước triều vừa kịp rút nhanh
Đánh cho một trận tan tành
Quan quân tướng giặc thất kinh rụng rời
Thuyền của địch đâm lòi cọc sắt
Nát lủng sườn khiến giặc thất kinh
Nhác trông lại thấy Ngô Quyền
Oai phong lẫm liệt trên thuyền chỉ huy
Ta chẻ đôi, phân ly đội ngũ
Giặc bỏ thuyền lố nhố lên bờ
Hán quân đâu thể nào ngờ
Lọt vòng mai phục ta chờ từ lâu
Địch khiếp vía đâm đầu tháo chạy
Còn quân ta thấy vậy đánh luôn
Dồn cho chúng đến cùng đường
Bắt ngay Hoằng Tháo, trước quân chém liền
Chúa Nam Hán vật mình đau đớn
Biết con đà tử trận , phanh thây
Xác con để lại đất này
Giận mình không đủ sức tài cứu con
Bạch Đằng Giang, sông xưa hùng dũng
Tiếng sóng rền còn vọng đâu đây
Hồn thiêng chót vót chân mây
Ngọn cờ độc lập tung bay trên thành
Người ta bảo có vành áng sáng (898 - 944)
Khi vua sinh tỏa rạng khắp nơi
Khí thiêng un đúc nên người
Tướng đi tựa hổ, nốt ruồi ngang lưng
Có trí dũng, sức nâng được vạc
Lúc trẻ thơ mẹ đặt Ngô Quyền
Cùng con Dương Nghệ kết duyên
Được phong Nha tướng cầm quyền Ái Châu
Đất Đường Lâm ơn sâu vũ lộ
Chọn Loa Thành làm chỗ đóng quân
Lập Dương hoàng hậu , chiêu đàn
Đặt ra chức tước cho hàng thân vương
Chế nghi lễ, đai cân phẩm phục
Thiết triều đình theo bậc đế vương
Ngài vừa bốn bảy thì băng
Ở ngôi cửu ngũ Việt Thường sáu năm (941)
Một chiến thắng ngàn năm để lại
Sông Bạch Đằng mãi mãi thiên thu
Đường Lâm xây dựng cơ đồ
Ngô Vương lưu dấu để cho đến giờ
DƯƠNG BÌNH VƯƠNG (945-950)
Ngô Xương Ngập kế thừa ngôi báu
Có Tam Kha là cậu của mình
Di thư Vua viết phân minh
Giao Kha giúp rập con mình lên ngôi
Nhưng Tam Kha nuốt lời di chúc (945)
Tên gian thần thừa lúc ấu vương
Mon men trở dạ bất lương
Cướp ngôi của cháu , Bình Vương xưng càn
Dương Tam Kha mưu gian hại cháu
Bọn cận thần cho dẫu đa mưu
Cũng không giấu được ý đồ
Soán ngôi phản nghịch dở trò mị dân
HẬU NGÔ VƯƠNG (951-965)
Ngô xương Văn nhân danh triều cũ
Cùng hai người họ Đỗ, họ Dương
Dùng mưu bắt được Bình Vương
Bảo toàn cơ nghiệp nối giòng họ Ngô
Văn cùng anh cùng lo việc nước
Sau Xương Ngập lấn lướt chuyên quyền
Muốn giành tất cả làm riêng
Gây nên chia rẽ anh em trong nhà
LOẠN SỨ QUÂN (966)
Loạn sứ quân tạo ra thảm cảnh (966)
Mười hai phe tranh đánh lẫn nhau
Sứ quân tên họ như sau :
Lý Khuê, Bạch Hổ, Đằng Châu chiếm thành
Đất Thái Bình Nguyễn Khoan hùng cứ
Đỗ Cảnh Thạc, Xương Xí, Nguyễn Siêu
Lã Đường, Kiều Thuận tiếp theo
Rồi Ngô Nhật Khánh lại gieo kinh hoàng
Kiều Công Hãn giành dân với Tiệp
Loạn sứ quân chém giết lẫn nhau
Chiến tranh mãi đến năm sau
Cuối cùng Bộ Lĩnh tóm thâu nước nhà (968)
ĐINH BỘ LĨNH (968 -980)
Đinh Bộ Lĩnh vốn là bộ tướng
Của sứ quân Trần Lãm Minh Công
Châu Hoan thứ sữ : cha ông
Quê người ở đất Đại Hoàn Hoa Lư
Mồ côi cha kể từ thuở bé
Mẹ họ Đàm quạnh quẽ nuôi con
Ngày thường với trẻ cùng thôn
Tréo tay làm kiệu suy tôn mà đùa
Cầm cờ lau, tay khua nghi trượng
Chơi như là điều tướng, khiển binh
Người già thấy thế làm kinh
Trẻ này sau lớn ắc thành đế vương
Quả nhiên sau, khương cường khôn lớn
Đầu quân về dưới trướng Minh Công
Cùng dân dấy nghĩa xưng hùng
Sứ quân hàng phục cuối cùng tôn lên
Vạn Thắng Vương thành tên người gọi
Bởi mỗi lần trống nỗi xuất quân
Điều binh tốc thắng như thần
Khiến cho hùng trưởng quy hàng dưới tay
Năm Mậu Thìn lên ngai Hoàng Đế (968)
Dời đô về kinh ấp Hoa Lư
Đắp thành, bảo vệ kinh đô
Sáu quân binh mã để lo giữ gìn
Đại Cồ Việt đặt tên cho nước
Dùng kinh tế liệu trước cho dân
Nghiêm minh trái lệnh bất tuân
Vạc dầu củi sắt để răn mọi người
Vua lại sai phân chia nhiệm vụ
Chọn nhân tài để bổ làm quan
Biên niên, lịch sử rõ ràng
Ghi từng sự kiện để làm tàng thơ
Chia binh ra quân cơ mười đạo
Cấp quân trang, mũ áo chỉnh tề
Định phân cấp bậc uy nghi
Đạo, Quân, Lữ, Tốt, Ngũ ghi rõ ràng
Đinh Tiên Hoàng lập năm hoàng hậu
Quá yêu con thơ ấu Hạng Lang
Phong làm Thái Tử thay vương
Buộc con Đinh Liễn phải nhường cho em
Năm Bính Tý thương thuyền các nước (976)
Lần đầu tiên dừng bước đất ta
Đem dâng phẩm vật lụa, ngà
Cống triều cốt để làm quà giao thương
Cuộc ngoại thương đầu tiên từ đấy
Của nước ngoài muốn cậy nhờ ta
Bán buôn trao đổi lại qua
Giữa dân các nước diễn ra trong vùng
Liễn mất quyền, sinh lòng chiếm đoạt
Giết Hạng Lang tội ác Việt Vương
Vì ngôi làm việc bất lương
Nhẫn tâm đến nỗi coi thường tình thâm (797)
Việc như thế nẩy mầm bạo loạn
Tên Đỗ Thích thí mạng nhà vua
Khi ngài an uống say sưa
Trong sân cung cấm bấy giờ nữa đêm
Hắn giết thêm Việt Vương Đinh Liễn
Rồi trèo tường lén ẩn trong cung
Bị quan Nguyễn Bặc truy lùng
Tìm ra hung thủ bên trong lổ vò
Tên Đỗ Thích bấy giờ bị bắt
Thân thể y băm nát thịt xương
Đáng đời răn kẻ làm gương
Âm mưu thoán đoạt ngôi vương của người
Việc hại người chung quy là thế
Chuyện quốc gia phải để vô tư
Bỏ trưởng mà lấy con thơ
Lập năm hoàng hậu cơ đồ e hư
Rước linh cửu vua rồi đem táng
Mã Yên Sơn thuộc huyện Trường Yên
Quần thần đưa trẻ cầm quyền
Vừa tròn sáu tuổi đã lên ngai vàng
ĐINH PHẾ ĐẾ (979 - 980)
Quan đại thần Lê Hoàn nhiếp chánh (980)
Mưu thông gian với cánh họ Dương
Vân Nga thái hậu tôn vương
Cùng quan Cự Lạng dọn đường đoạt ngôi
Vở hài kịch đến hồi ngoạn mục
Trong triều đình gặp lúc lao đao
Ngang nhiên nội phủ đi vào
Quan quân áo trận ào ào nói năng
ĐẠI HÀNH HOÀNG ĐẾ (980 - 1005)
Tôn Thập Đạo nối chân Thiên Tử
Năm Canh Thìn khai thái tân quân (980)
Tung hô vạn tuế mấy lần
Vân Nga thái hậu cúi dâng áo bào
Lẽ đương nhiên nhân nào quả ấy
Bôĩnh xưa từng lấy vợ người
Trớ trêu cho cái sự đời
Vợ mình kẻ khác cướp rồi biết chăng?
Quê Ái Châu Lê Hoàn xưng đế
Lấy vợ vua : Dương thị phu nhân
Lên ngôi Hoàng hậu để gần
Mười hai trai lớn lần lần phong vương
Năm Canh Thìn Tống vương hạ chiếu (980)
Sai Đa Tốn mang biểu thư sang
Vừa đe, vừa dọa, vừa nương
Tung đòn tâm lý dọn đường xuất quân
Tống chia quân ra làm bốn mũi
Hướng Bạch Đằng đường thủy tiến qua
Hội quân ở đất Đại La
Lạng Sơn binh bộ chia ba kéo vào
Hầu Nhân Bảo làm Giao Châu sứ (980)
Tôn Hoàng Hưng, Khâm Tộ theo chân
Lưu Trừng đốc thúc thủy quân
Hơn ba vạn đứa lên đường vượt sang
Hầu Nhân Bảo dương dương tự đắc
Kéo quân vào đi tắt lối sông
Vừa qua gần tới Chi Lăng
Bị ta phục kích giết phăng ngay liền
Giặc khiếp đảm thất điên, bát đảo (981)
Lê Đại Hành vũ bão tiến công
Giặc phơi thây chết đầy đồng
Đánh tan ba vạn quét xong giặc thù
Bắt Phụng Huân, trói gô Quân Biện
Giải giặc Tàu về đến Hoa Lư
Bộ binh Khâm Tộ thua to
Tống Vương xuống chiếu truyền thu quân về
Vua nước Tống suy đi tính lại
Dùng chiến tranh không khỏi thương vong
Chi bằng đưa chế sách phong
Giử cho thông hiếu được lòng hai bên
Lê Đại Hành nắm quyền quân lữ
Sai Tử An mở lộ Bắc Nam (992)
Thân hành đánh chiếm Nam Man
Chém Bê Mi Thuế kinh hoàng dân Chiêm
Vì trước đó người Chiêm bắt giữ
Quan Từ Mục , Ngô Tử Canh sang
Đưa thư hỏi tội Hoàn Vương
Lâu nay không thấy đưa sang cống triều
Trăm cung nữ bắt theo về nước (982)
Lẫn bạc vàng lấy được trong cung
Nhà sư Thiên Trúc bị cùm
Theo quân chiến thắng đi cùng di quan
Vua ra lệnh phá tan tông miếu
Hủy thành trì quốc bửu thu gom
Đánh Chiêm một trận thất hồn
Rửa xong cái nhục dám giam sứ thần
Đối với Tống dần dần thông hiếu
Sai sứ thần dâng biểu Ung Hy
Xin làm tiết trấn biên thùy (985)
Đến năm Thuần Hóa phong vì Quận Vương (995)
Khéo ngoại giao khi cường, khi nhược
Lúc sứ thần Lý Giác sang thăm (987)
Vua sai Sư Thuận giả làm
Chèo đò đưa sứ , đối ngâm thơ rằng :
"Bạch mao phô lục thủy
Hồng trạo bãi thanh ba"
Hai người ứng đối ngâm nga
Giác càng kính phục về nhà tấu lên
Vua cho trả bọn Quách Quân biện
Là tù binh trong trận Chi Lăng
Nhân khi Sứ Tống sang thăm
Tỏ tình hòa hiếu nhún nhường của ta
Vua cầm quyền, trông xa thấy rộng
Là một người lương đống tài cao
Giỏi tài nội trị ngoại giao
Giỏi tài khai khẩn vét đào kênh mương
Năm Quý Mão ( 1003) trên đường thị sát
Kênh Đa Cái hết nước cạn khô
Vua liền ra lệnh truyền cho
Quân dân nạo vét để đưa nước vào
Giặc Cử Long lâu lâu quấy rối
Vua đích thân di tới Cùng Giang
Điều quân , bày trận dọn đường
Kêu trời ba tiếng đánh tràn , giặc tan
Nam Bình Vương tước phong của Tống
Vì bãi binh ở Trấn Như Hồng
Vua Tàu cũng muốn đẹp lòng
Nên sai sứ đến tâng công cho ngài
Việc Ất Mùi (995) quan quân Giao Chỉ
Trăm chiến thuyền trực chỉ Trung Hoa
Hành quân tốc chiến từ xa
Như Hồng thị trấn vòng qua đánh vào
Châu Tô Mậu , Ung Châu nước Tống
Cũng bị ta chiếm đóng mấy ngày
Chiếm rồi cho rút ra ngay
Để mà nhắc nhỡ cho người biết ta
Sai quan nha đúc tiền Thiên Phúc (984)
Xây thêm lầu Long Lộc, Trường Xuân
Dựng nhà trên núi Đại Vân
Điện vàng, Điện bạc sức dân đổ vào
Đối với nước tài cao trông thấy
Nhưng việc nhà chẳng mấy kỷ cương
Anh em không biết nhún nhường
Mưu giành ngôi báu tranh vương đoạt quyền
TRUNG TÔNG HOÀNG ĐẾ (1005)
Điện Trường Xuân vào năm Ất Tỵ
Vua băng hà chiếu chỉ truyền ngôi
Anh em giành giật ghế ngồi
Cuối cùng Long Việt là người được may
NGỌA TRIỀU HOÀNG ĐẾ (1005 -1009)
Lê Long Đỉnh sai người hạ sát
Giết anh mình để đoạt ngôi vua
Sửa quan chế đổi triều vua
Rập khuôn theo đúng kiểu như bên Tàu (1006)
Mẹ Long Đỉnh tên Hầu Di Nữ?
Là một người gốc ở Champa
Hai vua bà đã sinh ra
Nữa mang máu Việt , nữa là Champa
Long Đỉnh có : bốn bà hoàng hậu
Xin Tàu cho mũ áo dát vàng (1009)
Tống triều chấp thuận gởi sang
Vua mang ngưu trắng đem dâng Bắc Triều (1007)
Theo Sử ký lắm điều quái đản
Được gán cho Long Đĩnh - Minh vương
Một là dâm đãng bạo tàn
Hai là ác đức coi thường mạng dân?
Như chuyện lấy : thằng lằn làm gỏi
Bắt trẻ thơ ra gọi cho ăn
Bắt người trấn nước sủi tâm
Bắt người xẻo thịt, bắt nằm chuồng heo
Bắt trèo cây cheo leo cao vút
Đốn gốc để cho rớt xuống chơi
Lấy cỏ tranh quấn vào người
Rồi đem đốt lửa vua tôi giải sầu
Lại róc mía trên đầu sư trọc
Rồi giả vờ như sóc nhằm gai
Thả tay vua để dao rơi
Đầu sư gội máu, vua cười vỗ tay
Vua lại sai cho người bắt rắn
Bỏ vào quần để đặng dọa chơi
Lão bà hoảng vía la trời
Vỗ tay thích chí vua cười bò lăn
Lúc thiết triều vua nằm nghiêng ngả
Bởi vì người đã quá ham mê
Tửu sắc, dâm dật ê chề
Mắc thêm bệnh trĩ khó bề ngồi lâu
Tên "Ngọa triều" bắt đầu từ đó
Tẩm điện lâu là chỗ vua băng
Đồng dao lên tiếng hát rằng :
"Ngọa triều hoàng đế" là thằng quái thai
Có một điều mà đời chẳng hiểu
Tại sao vua dâng biểu xin kinh? (1007)
Đắp đường, dựng cột, đào kênh?
Đóng thuyền để chở bộ hành sang sông? (1009)
Trong bốn năm coi trông việc nước
Đã năm lần chinh phạt phiến quân
Nếu vua là kẽ hôn quân
E rằng phải xét cân phân mọi bề
Nhà Tiền Lê tuyệt dòng từ đấy
Kỷ Dậu niên triều ấy mất ngôi (1009)
Cầm quyền hăm chín năm trời
Thay vua họ khác hai ngày lạ chưa?
Đã mấy lần cơ đồ nguy biến
Cảnh sơn hà lâm nạn chiến tranh
Quốc gia chìm nỗi gập ghềnh
Cuối cùng vẫn thắng xích xiềng ngoại bang.
Powered by vBulletin® Version 4.2.2 Copyright © 2024 vBulletin Solutions, Inc. All rights reserved.