View Full Version : THỜI CỦA THÁNH THẦN - Hoàng Minh Tường
COCKOO
13-05-2009, 10:50 AM
THỜI CỦA THÁNH THẦN
Phấn I -CƠN GIÓ BỤI Chương 1
Nguyễn Kỳ Viên
Nghe tin ngôi từ đường chi họ Nguyễn Kỳ chuẩn bị được tái dựng lại, khắp huyện Phương Đình bàn tán xôn xao rằng ông Cục, tên huý là Nguyễn Kỳ Quặc, con nuôi của ông bà Lý Phúc, đào được lọ vàng dưới gầm bàn thờ tổ.
Không vớ được của, làm sao một lão vừa điếc vừa què, cánh tay mềm oặt lủng lẳng như cái dẻ khoai nước, với một bà vợ ốm o và một đàn con lúc nhúc, vắt mũi không đủ vứt vào mồm, bỗng dưng bỏ ra hàng mấy chục cây vàng để mua lại sáu ngôi nhà của bà con nông dân được chia hồi cải cách ruộng đất, rồi đùng một cái, phá dỡ sạch bách không còn đến một cái móng, để chuẩn bị xây khu từ đường mới, nghe. rlói không thua kém gì Văn miếu Quốc Tử giám ngoài Hà Nội? Thì ra ông trời cũng có mắt cả đấy. Người ta là con nuôi con đòi, chẳng máu mủ ruột rà gì, nhưng ăn ở có nhân có đức, ắt Trời Phật độ trì.
Người ta bịa ra hẳn một câu chuyện rất li kì. Rằng một đêm kia, đang ngủ, ông Cục bỗng ngồi vục dậy người toát hết mồ hôi, chân tay bủn rủn. Rõ ràng ông vừa nhìn thấy một người mặc toàn đồ trắng, râu tóc dựng ngược đang trồng cây chuối trước gian giữa nhà thờ tổ. Hoảng hốt, ông Cục lấy tay che mặt không dárn nhìn. Đúng là ông Lý Phúc, bố nuôi của Cục, đã chết trong vụ đấu tố đợt một thời cải cách ruộng đất.
- Cục ơi, thầy đây mà, đừng sợ… - Người trồng cây chuối bỗng cất lên tiếng trầm khàn, tiến đến gần Cục.
- Con lạy thầy, thầy sống khôn chết thiêng, thầy hiện về đây dạy bảo vợ chồng con điều gì? - Cục cầm bàn tay bị liệt đưa lên, vái lạy rối rít - Con cắn rơm cắn cỏ lạy thầy. Con chỉ đấu tố thầy một buổi thí điểm… Con không gây nên cái chết cho thầy… oán con lắm thầy ơi…
Bóng áo trắng bỗng cất tiếng cười vang. Tiếng cười trong đêm rờn rợn như tiếng tre đưa ken két ngoài bờ ao.
- Chuyện cũ qua rồi. Con đừng cả nghĩ. Thầy biết mà. Thời cuộc lúc ấy nó khốn nạn thế. Tránh không được. Toàn bọn dòi bọ cua ếch lên làm người. Thế nên thầy tự chọn lấy cái chết. Một cái chết không toàn thây, cái chết đau đớn nhất…
- Vâng. Con thấy em Hậu nằm vắt trên bậc cửa, nghĩ nó chết, con hoảng quá. Đến khi nhìn thấy thầy treo ngược thân từ trên xà nhà thì con thất kinh…
- Tự thầy nghĩ ra cách chết ấy đấy. Thầy bắc thang trèo lên cái chếnh nhà kia, lấy sợi thừng trâu buộc chặt vào ngón chân cái tính đoạn thừng vừa đủ khoảng cách nối người với mặt đất, rồi thầy đâm đầu xuống…
- Lúc ấy con vừa ở nhà kho về. Đội cải cách bắt đầu nghi ngờ con, chỉ cho con canh nhà kho ban ngày. Vừa mở cửa bước vào con liền kêu thét lên, tưởng ma hiện trong nhà thờ. Chân thầy treo lơ lửng trên đoạn dây thừng, nối với xà nhà, đầu thầy gieo xuống nền gạch, vỡ ra, óc trắng xoá hoà với máu thâm đen trên sàn. Một cái chết không toàn thây.
- Cảm giác gieo đầu xuống đất là một cảm giác mạnh, thú vị biết bao. Thầy không treo cổ chính là muốn được hưởng cảm giác mạnh, muốn được chết không toàn thây… Nhưng thôi, chuyện cũ rích rồi. Những kẻ bày đặt ra cảnh con giết cha, vợ giết chồng giờ đã chết cả rồi. Cho qua chuyện cũ đi con…
- Dạ vâng… Nhưng… thầy còn oan ức gì? Sao thầy lại về… - Giọng ông Cục bỗng run bắn.
- Đã bao nhiêu năm thầy nung nấu về điều này… Bây giờ mới dám nói với con… Lẽ ra thằng cả Khôi, thằng hai Vỹ, thằng ba Vọng phải lo việc này. Nhưng chúng là những kẻ phát vãng, vong bản. Chúng không thiết đến quê hương, không coi trọng gia đình, thậm chí chỉ nghĩ đâu đâu, thế giới đại đồng, không muốn có tổ quốc nữa… Thầy đau lắm…
- Các anh ấy đi làm cách mạng… Con đui què mẻ sứt nên mới quẩn quanh xó bếp.
- Ba thằng anh con, mang tiếng là con đẻ của thầy u, nhưng coi như vứt. Thằng Nguyễn Kỳ Khôi là trưởng, nhưng thầy từ nó rồi. Thằng hai Nguyễn Kỳ Vỹ mặt trắng thư sinh, thuộc loại "lập thân tối hạ thị văn chương". Loại người như nó suốt đời chỉ bồi bút thì được chứ không bao giờ được tin dùng. Hiền lành như thằng ba Vọng, thì lại phát vãng, vật vờ lê lết quê người… Chỉ còn con thôi, Cục ạ. Con mới là người hiếu đễ trông nom hương hoả. Vì thế thầy mới bàn với con về việc dựng lại ngôi từ đường chi họ Nguyễn Kỳ… Ngôi nhà cốt nhất cái nóc. Dòng họ cốt nhất mồ mả tổ tiên, bàn thờ gia tộc. Không có những điều linh thiêng đó, còn chi cái giống người? Thấy chi họ Nguyễn Kỳ nhà ta phát tán đi muôn nơi, anh em thù ghét nhau, thầy đau buồn lắm. Thầy chết mà không siêu thoát được con ạ…
- Lạy thầy đã dạy. Con tuy không phải do thầy u đẻ ra, nhưng ơn dưỡng dục còn hơn cả công sinh thành. Ngày nhỏ con được thầy cho học ít chữ thánh hiền, con phần nào cũng hiểu được đạo lý làm người…
Bóng áo trắng lại cười khà khà, ra chiều đắc ý:
- Thế cho nên thầy mới trông giỏ bỏ thóc… Bao nhiêu năm dạy học và bốc thuốc, thầy có tích góp được một ít vàng. Thầy chôn ở chân cột nhà thờ… Số vàng ấy đủ cho con chuộc lại đất của mấy hộ ông bà cố nông và sửa sang lại ngôi từ đường chi họ Nguyễn Kỳ…
Câu chuyện người và ma gặp nhau như chuyện Liêu Trai ấy, không biết do ông Cục kể lại hay ai đó sáng tác ra mà một dạo cứ xầm xì lan đi khắp làng Động. Phần sau câu chuyện có thể do nhiều người đơm đặt, chứ phần đầu thì đích thị là của ông Cục. Chuyện ông Cục vẫn thường gặp bóng người quần áo trắng trồng cây chuối trong nhà thờ là chuyện hoàn toàn có thật, nhất là những năm sau cải cách và thời kỳ thành lập hợp tác xã nông nghiệp. Ông thì thào với vợ. Ông vừa thắp hương lầm rầm khấn vái vừa thuật lại với bà Lý Phúc. Ông kể bô bô ngoài đồng: "Tôi nói sai tôi là con chó. Ông cụ thiêng lắm. Tuần đầu tháng nào ông cụ cũng hiện về. Lạ lắm. Bao giờ ông cụ cũng mặc bộ quần áo trắng toát và đứng trồng cây chuối giữa nhà".
Câu chuyện như một ám ảnh ma quái khiến không ai dám bén mảng đến năm gian nhà thờ. Riêng bọn trẻ con lại càng khiếp đảm, cứ chập tối là xuống bếp bám lầy váy mẹ, thấy con đom đóm bay vào nhà thờ là sợ vãi đái ra quần.
Những người không tin chuyện thần thánh tà ma thì lại muốn giải mã việc xây dựng từ đường chi họ Nguyễn Kỳ theo một hướng khác. Họ tập trung vào người con cả của ông Cử Phúc là Nguyễn Kỳ Khôi, một nhân vật có quyền chức, địa vị, người thành đạt nhất của chi họ Nguyễn Kỳ dưới chính thể nhà nước Xã hội chủ nghĩa.
Công bằng mà nói, rất ít người làng Động biết đến cái tên Nguyễn Kỳ Khôi. Đó là một cái tên chỉ gợi nhớ thời ấu thơ và chỉ những người trong gia đình thỉnh thoảng còn nhắc tới.
Nguyễn Kỳ Khôi là con bà vợ cả ông Cử Phúc. Năm Khôi hai tuổi thì bà cả mất vì hậu sản. Ông Cử Phúc lấy bà Vũ Thị Ân, con gái út cụ đồ Hanh bên kia sông làm vợ kế. Bà Ân sinh được hai con trai là Nguyễn Kỳ Vỹ, Nguyễn Kỳ Vọng và cô con gái út Nguyễn Thị Kỳ Hậu. Năm anh cả Nguyễn Kỳ Khôi mười lăm tuổi thì Cách mạng tháng Tám bùng nổ. Đang học năm cuối lớp đệ nhất, Khôi bỏ, xung vào đội quân tuyên truyền của cách mạng, rồi thoát ly theo kháng chiến. Lên Việt Bắc, Khôi được tổ chức đổi tên thành Chiến Thắng Lợi, một cái tên gắn bó máu thịt với cuộc kháng chiến chống Pháp. Để có được một cái tên như thế, chứng tỏ Nguyễn Kỳ Khôi đã phải nỗ lực phấn đấu và trung thành tuyệt đối để được tin cậy đến mức nào.
Những người thuộc thế hệ chống Pháp và chống Mỹ, hầu như ai cũng biết đến cái tên Chiến Thắng Lợi, đồng chí Chiến Thắng Lợi. Có một bài báo rất có tiếng vang đăng trên tờ báo Thời Mới, ở chuyên mục "chân dung chiến sĩ" đã in một bài dài với tựa đề "Anh tôi - Chiến Thắng Lợi". Tác giả là nhà thơ Nguyễn Kỳ Vỹ. Lần đầu tiên bạn đọc biết đến Nguyễn Kỳ Khôi, tức đồng chí Chiến Thắng Lợi là anh ruột nhà thơ Nguyễn Kỳ Vỹ, một cây bút đang nổi như cồn với tập thơ "Thời của Thánh Thần". Tác giả kể về làng Động, về tuổi thơ của hai anh em, về cái lần anh Chiến Thắng Lợi từ vùng ATK về rủ Vỹ trốn nhà lên chiến khu Việt Bắc.
Thời kỳ cải cách ruộng đất, cái tên Chiến Thắng Lợi xuất hiện khá nhiều trên các văn bản, thông tri. Những người am hiểu về chính trị còn biết rằng sau này Chiến Thắng Lợi còn là nhà thiết kế, tác giả tinh thần của nhiều chủ trương lớn có tính chất quyết định những bước ngoặt của nền kinh tế xã hội, ví như cuộc cải tạo công thương nghiệp ở miền Bắc năm 1960, cuộc chuyển đổi kinh tế miền Nam năm 1976. Suốt những năm 1980, cái tên Chiến Thắng Lợi đã trở thành biểu tượng, niềm tự hào không chỉ của làng Động mà của cả huyện, cả tỉnh quê hương ông.
Cho nên, ông Cục có tài thánh cũng không che được mắt thiên hạ. Bỏ ra tiền tỷ để chuộc lại đất khu nhà thờ, rồi lại định phá sạch bách, xây mới toàn bộ khu từ đường chi họ Nguyễn Kỳ, phi bố con ông Chiến Thắng Lợi, mấy anh em ông Vỹ ông Vọng, ông Cục có mọc thêm ba đầu sáu tay nữa cũng cóc làm nổi. Người ta cam đoan như đinh đóng cột rằng, chiến dịch "hạ cánh an toàn" và "chuyển lửa về quê" của ông Chiến Thắng Lợi không thua kém gì việc Tào Tháo chuẩn bị xây lăng mộ trước khi chết. "Các cụ nói cấm có sai. Cáo chết ba năm quay đầu về núi. Của nả, bổng lộc tích cóp suốt mấy chục năm đi làm cách mạng rồi cuối cùng cũng phải chuyển về trả nghĩa tổ tiên, vinh danh cho dòng họ…" Người ta khẳng định với nhau thế. Có người còn bảo: "Bố con ông Chiến Thắng Lợi chính là những tư bản đỏ kếch xù. Nguyên vụ đổi tiền năm 1985, biết trước đồng tiền sẽ mất giá, ông thu gom tiền bạc đổi thành vàng hết. Chỉ năm sau, đã có cả núi vàng. Rồi anh con trai cả, trùm buôn lậu ở Nga, thu gom hết hàng hoá ở khu chợ Vòm, chuyển tiền về nước kìn kìn. Mấy bố con có tới ba trang trại ở Sóc Sơn, Hoà Lạc, Bình Dương, hai biệt thự cao cấp ở Hà Nội, Sài Gòn, lại nghe nói có vài chục triệu đô la gửi ngân hàng châu âu nữa. Ông con quý tử Chiến Thống Nhất, mới hơn ba mươi tuổi, đã thành lập công ty riêng, buôn địa ốc, buôn ô tô, tiền tấn. Khác hẳn tính bố, Chiến Thống Nhất thuộc loại ăn chơi bốc trời. Một năm thay vài ba xe tô, vài ba cô bồ toàn loại người mẫu chân dài. Ngày bà cụ Lý Phúc còn sống, Nhất bảo: "Nhờ hồng phúc tổ tiên, bố cháu mới được như thế này. Rồi cháu sẽ sửa một lễ trọng trình với tổ tiên xin đổi lại họ Nguyễn Kỳ bà ạ. Cái tên Chiến Thống Nhất nghe nó… pê-đê lắm."
Bà cụ Phúc không hiểu pê-đê là gì, nhưng cụ tin rằng Chiến Thống Nhất không phải là kẻ mất gốc.
***
COCKOO
13-05-2009, 10:54 AM
Gia phả họ Nguyễn ở làng Động ghi lại rằng, tổ họ chính là người họ Lý, tên huý là Lý Kỳ Phong, quê gốc ở làng Đình Bảng, xứ Kinh Bắc. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Năm Nhâm Thìn, Kiến Trung thứ tám, 1232, vì Nguyên tổ tên huý là Lý (Trẩn Lý), nhà Trần cho đổi triều Lý thành triều Nguyễn, vả lại cũng để dứt bỏ lòng mong nhớ của dân chúng đối với nhà Lý. Cũng mùa đông năm ấy, nhân người họ Lý làm lễ tế các vua Lý ở Thái Đường, Hoa Lârn, Thủ Độ ngầm đào hố sâu, làm nhà lên trên, đời khi mọi người uống rượu say, giật máy chôn sống hết". Bấy giờ tổ họ Nguyễn là người nội tộc, đầu quân dưới trướng Hoàng tử Lý Long Tường con vua Lý Anh tông, đồn trú ở trấn Vân Đồn ngoài biển Đông Hải. Có tin mật báo từ kinh đô Thăng Long về âm mưu thâm độc của Trần Thủ Độ, Hoàng tử Lý Long Tường bèn bí mật tổ chức cuộc vượt biển, đưa vợ con gia đình rời bỏ đất Đại Việt. Lý Kỳ Phong được giao một nhiệm vụ đặc biệt: Thu mua hàng trăm con chó đóng cũi nhốt sẵn dưới chiến thuyền. Đây là thực phẩm trữ sẵn dành cho chuyến vượt biển dài ngày đầy hiểm nguy gian khổ. Lý Kỳ Phong đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Ngài gom được hơn năm trăm con chó tơ, chở ra Vân Đồn.
Nhưng rồi đến ngày Hoàng tử Lý Long Tường cùng gia tộc, bộ hạ dong buồm ngược hướng đông bắc nhằm nước Cao Ly khởi hành thì Lý Kỳ Phong phải ở lại vì vợ ngài trở dạ đẻ, tính mạng thập tử nhất sinh. Sau đó ngài tìm đường đưa vợ về làng Động quê ngoại đổi họ Lý thành họ Nguyễn để tránh cái hoạ tuyệt diệt.
Gia phả viết rằng kể từ thượng tổ Lý Kỳ Phong, làng Động khai sinh dòng Nguyễn Lý. Cho tới thời Mạc - Sùng Khang năm thứ 13, Mậu Dần, 1578, dòng Nguyễn Lý làng Động tách ra một chi họ Nguyễn Kỳ. Số là, vào thời kỳ đó, có ông thầy tướng người Tàu được mời về tìm đất để đặt lại ngôi mộ tổ. Do đãi đằng công sá không chu tất, ông thầy Tàu giở mặt, bèn yểm một lá bùa và truyền rằng, từ đây, anh em, bố con họ Nguyễn làng Động sẽ ganh ghét, hiềm khích, thậm chí chém giết nhau. Quả nhiên, ngay sau đó, hai ông trưởng, thứ mỗi ông theo một phe, ông chi trưởng theo quân của Thường Quốc công Nguyễn Quyện giúp Mạc Mậu Hợp chống lại nhà Hậu Lê, ông chi thứ theo quân của Tiết chế Trịnh Tùng, phò Lê diệt Mạc. Và hai anh em họ Nguyễn làng Động đã giết nhau tại cửa ngõ thành Thăng Long trong trận tử chiến tết Nhâm Thìn 1592, trận đánh quyết định kết liễu triều đại nhà Mạc.
Kể từ cuộc huynh đệ tương tàn ấy cho đến đời ông Nguyễn Kỳ phúc đã mười bốn đời. Bố ông Nguyễn Kỳ Phúc là cụ đồ Nguyễn Kỳ Kha, bạn học với Hoàng giáp Nguyễn Thượng Hiền, người làng Bặt, từng tham gia phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục. Ông Nguyễn Kỳ Phúc là con trai độc, được học hành chu đáo tham gia khoá thi nho học cuối cùng của triều Nguyễn năm 1919, đỗ Cử nhân, nhưng vì phải phụng dưỡng mẹ già, không ra làm quan, ở quê dạy học và bốc thuốc.
Khu từ đường chi họ Nguyễn Kỳ là tác phẩm nghệ thuật của quan Đốc học Nguyễn Kỳ Đồng, bố cụ Đồ Kha, ông nội ông Cử Phúc, xây dựng từ thời vua Tự Đức. Đây là một quần thể kiến trúc đậm tính Á Đông. Công trình chính, nhà thờ tổ, gồm năm gian chính điện có hậu cung hình chuôi vồ, được nối với nhà tiền tế bởi một nhà dọc, hai bên có hai giếng trời dùng làm sân hoa và dựng hòn non bộ. Nghe nói, làm công trình này, quan Đốc học đã nghiên cứu kiểu dáng Khiêm cung và Khiêm đăng do vua Tự Đức tự xây dựng cho mình ở kinh đô Huế, rồi mướn chính hiệp thợ làm Khiêm cung thi công.
Chính vì thế mà các bức chạm trổ, phù điêu ở nóc, đầu hồi, câu đầu quá giang… cho tới hoành phi câu đối đều rất tinh vi đầy tính nghệ thuật. Hai đầu hồi nhà tiền tế là hai nhà tả hữu vu, dãy làm nhà ở và thư phòng của chủ nhân, dãy làm lớp học và phòng khách. Tiếp sau đó là các dãy nhà ngang cho con sen người hầu, khu nhà kho, nhà bếp, góc xa nhất là chuồng trâu bò, lợn gà… Mênh mông như một sân vận động, lát toàn loại gạch Bát Tràng đỏ au là sân chầu, nơi diễn ra các hoạt động tế lễ và là nơi quan Đốc cùng bạn hữu chơi cờ người. Chính tại những cuộc đấu cờ người vô tiền khoáng hậu này mà nơi đây đã từng thu nhận nhiều tao nhân mặc khách. Cao thủ cờ khắp Bắc Trung Nam từng tìm đến tỉ thí. Văn nhân nghĩa hiệp mượn chén rượu cuộc cờ để tụ hội quần anh cũng nhiều. Nghe nói, bài thơ Đánh cờ người, nhại lại giọng điệu của bà chúa Thơ Nôm Hồ Xuân Hương, cũng được các văn nhân Bắc Hà "sáng tác" tại đây.
Chàng với thiếp đêm khuya trằn trọc,
Đốt đèn lên đánh cuộc cờ người…
Mới đầu vào chàng liền nhảy mã
Thiếp vội vàng vén phứa tịnh lên
Đôi xe hà chàng gác hai bên.
Sợ chiếu hết thiếp liền gánh sĩ.
Chàng thấy thiếp đang trong thế bí.
Liền vội vàng dủ dí tốt vô cung…
Sau bức đại bình phong đắp nổi bằng gốm sứ, là một hồ sen bán nguyệt, có cầu Nguyệt Kiều nối với đảo Ngọc, trên đảo có lầu Bát Toạ, nơi để câu cá, làm thơ và thưởng ngoạn. Cả một quần thể công trình kiến trúc văn hoá rộng tới hai mẫu Bắc Bộ, tương đương bẩy nghìn mét vuông, được xây tường gạch vồ bao quanh, vừa thâm nghiêm như chốn công đường, vừa ấm cúng êm đềm như một tĩnh viên rợp bóng cây xanh và rộn tiếng chim lạ.
COCKOO
13-05-2009, 10:56 AM
Cái tên "Nguyễn Kỳ Viên" chính là sự phát hiện, là quà tặng của một khách văn chương nhân chuyến đến thăm quan Đốc học Nguyễn Kỳ Đồng. Quá cảm kích và tâm đắc với quà tặng của bạn, quan Đốc học lưu bạn ở lại để lưu bút rồi sứa một cái lễ trình với tiên tổ, gọi thợ cho xây lại cổng lớn, đắp nổi ba chữ đại "Nguyễn Kỳ Viên" của khách văn lên.
Cũng nhân việc xin chữ, quan Đốc học lại được bạn khách văn viết cho ba chữ lớn "Dương Nhất Chân", sau thuê thợ mộc làng Chuồn khảm trai treo trang trọng trước ban thờ tổ Những người biết chữ nho đều đọc được, nhưng ít người hiểu được nghĩa ba chữ đại này. Người khách văn giảng giải: Đây là ý lấy trong hai câu thơ của Đại danh y Hải Thượng Lãn ông viết trên đường thượng Kinh chữa bệnh cho chúa Trịnh Sâm và thế tử Trịnh Cán: độn thế tòng y dưỡng nhất chân. Bất tri vi phú khơi tri bần" (Trốn đời theo nghề thuốc để giữ cái mộc mạc của mình. Không biết làm giàu há có biết chi cái sự nghèo). Ba chữ đại này còn có ý nói chi họ Nguyễn Kỳ sẽ có người theo nghề y, việc này quả ứng ngay với con cụ Đồ Kha, tức là ông Cử Phúc. Sau này, có nhà nghiên cứu thư pháp, đối chiếu mẫu tự, cho rằng người khách văn đó chính là cụ Tam nguyên Yên Đổ. Nhà thơ Nguyễn Khuyến là bạn của ông Nghè Dương Khuê, người làng Phương Đình. Ông Nghè Phương Đình lại là chỗ thông gia bạn hữu với quan Đốc học Nguyễn Kỳ Đồng. Văn chương kim cổ nhi huynh đệ, chính là vậy.
Sau vụ cụ Đồ Kha bị Tây bắt đi tù vì bị nghi một bài thơ cụ viết có tư tưởng chống đối nước mẹ Đại Pháp và nhất là sau trận ốm liệt giường cuối đời cụ đồ, kết quả của sáu tháng tù đày trong nhà lao thực dân, gia cảnh nhà ông Cử Phúc đã sa sút lắm rồi. Những thửa ruộng thượng đẳng điền ở gần làng và đàn trâu bò lần lượt bị bán đi để lo lót cửa quan, để chạy chữa thuốc thang cho cụ đồ, rồi lo tiền ăn học cho bốn cậu con trai. Sau ngày cậu cả Khôi, cậu hai Vỹ đi kháng chiến, thì tốn kém nhất lại là tiền ăn học của cậu ba Vọng. Từ lớp Đệ tứ, Vọng đã phải đi trọ học trên phủ Phương Đình. Đến khi lên Đệ nhị, Đệ nhất, Tú tài năm thứ nhất thì phải gửi ra học ngoài Hà Nội. Mỗi bồ chữ là một mẫu ruộng, một con trâu. Bà Cử Phúc suốt ngày đầu tắt mặt tối, cơm hẩm cà hưu, như cảnh bà Tú thành Nam của Tú Xương:
"Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng".
Cho tới đợt giảm tô, năm 1954, gia sản của ông bà Cử Phúc chỉ còn lại sáu mẫu, ba sào ruộng, hai con trâu, một con nghé và khu nhà thờ cổ kính có tuổi hơn trăm năm, cùng một Nguyễn Kỳ Viên u trầm thơ mộng.
Tuy cảnh nhà sa sút, nhưng ông Cử Phúc lại ngầm có sự mãn nguyện và kiêu ngạo của kẻ sĩ đắc chí. Là một đại biểu cuối cùng của nền nho học hủ lậu và yếm thế, ông Cử Phúc từng công khai thú nhận với bạn bè, đồng môn về sự bỏ đi, sự hèn nhát, bất lực trước thời cuộc của mình. Ông tự hào và kỳ vọng ở hai cậu con trai Nguyễn Kỳ Khôi, Nguyễn Kỳ Vỹ. Đó là sự kỳ vọng, sự gửi gắm, và cao hơn thế là sự dâng hiến của đời ông, gia tộc ông cho công cuộc kháng chiến, giải phóng dân tộc Rất nhiều đêm không ngủ, ông ngồi co ro trên chiếc sập gụ giữa nhà, uống trà, hút thuốc lào vặt, mắt nhìn sâu vào cõi xa xăm, tai lắng nghe tiếng ì ùng từ vùng núi Kim Bôi rất xa vọng lại. Và ông tưởng tượng ra cảnh hai thằng con trai ông đang xông pha chiến trận, đang theo bộ đội Cụ Hồ mở mặt trận Hoà Bình, Tây Bắc… Chiến thắng Điện Biên Phủ như chớp sáng chói loà, như hào quang rực rỡ, tưởng sẽ tràn ngập vĩnh cửu thế gian, tuôn tràn nhựa sống khắp làng Động, khắp Nguyễn Kỳ Viên của ông Cử Phúc, nào ngờ đất trời bỗng tối sầm lại khi cơn bão đen năm Ất Mùi, 1955, ập đến.
Hai người con trai tham gia kháng chiến cũng không cứu nổi ông bố bị quy là địa chủ cường hào, không giải thoát nổi ông khỏi cuộc đấu tố long trời lở đất của ông bà nông dân đang vùng lên tiêu diệt giai cấp bóc lột. Ông Cử Phúc già sọp như một lão tám mươi. Luồng hắc phong với xú khí nồng nặc và ám khí tử thần đã đập phá tan tành Nguyễn Kỳ Viên, cuốn bay hai sân hoa kiểng với nhiều loại kỳ hoa dị thảo hàng trăm năm tuổi, đập vỡ hết thảy những bình gốm sứ, nghê rồng từ thời Lý, Trần, từ thời Minh, Thanh, Trung Quốc. Lần lượt lầu Bát Toạ, cầu Kỳ Nguyệt bị giật đổ. Từ hoành phi câu đối cho tới bút tích của Tam Nguyên Yên Đổ, hàng trăm cuốn sách thuốc, sách chữ thánh hiền đều bị đốt trụi, bị quăng xuống hồ, lẫn với tre xoan bị chặt hạ, lẫn với ván thôi, xác chuột và phân người. Cái sân gạch rộng mênh mông như sân đình bị cuốc lên, chia nhó từng mảnh cho các ông bà nông dân trồng khoai, trồng cà. Sáu hộ bần cố nông chia nhau quả thực, chiếm giữ hai dãy nhà tả hữu vu, nhà ngang, và cả ngôi nhà thờ Gạch ở sân được dùng để xây những bức tường ngăn giữa các hộ, như những lô cốt cố thủ, rồi xây thêm sáu khu bếp, chuồng lợn, chuồng trâu. Riêng chuyện đi ỉa thì mạnh ai người nấy phóng ra vườn, sau những bụi chuối và các đống rơn rạ, hoặc phóng thẳng xuống cái hồ nay đã thành một mảnh ao tù.
Hơn bốn mươi năm trôi qua. Nguyễn Kỳ từ đường, Nguyễn Kỳ Viên tưởng mãi mãi phế tích, tưởng sẽ dần bị huỷ hoại, bị xoá hẳn dấu tích trên thế gian. Nào ngờ, như trong huyền thoại, vào giữa năm 1995 một dự án lớn phục chế và tôn tạo Nguyễn Kỳ Viên đã được hình thành. Để chuẩn bị cho công trình thế kỷ này, ngay từ năm 1985, giai đoạn một của dự án đã hoàn tất. Khuôn viên bẩy nghìn mét vuông của Nguyễn Kỳ Viên đã được chuộc lại hoàn toàn. Sáu hộ ngày cải cách ruộng đất giờ đã sinh sôi thành mười tám gia đình vợ chồng con cái, tạo thành một tụ điểm chật chội và đầy tệ nạn cờ bạc, hút sách, trộm cắp… Nhưng rồi vợ chồng ông Cục cũng giải quyết êm gọn. Tiền nhiều là xong béng. Bẩy hộ ẵm tiền vào Lâm Đồng, Sông Bé lập khu kinh tế mới, mua đất trồng cà phê, cao su. Ba hộ kéo nhau ra Hà Nội bán phở, làm cốp pha. Những hộ còn lại ra khu dàn dân đầu làng mở quán karaokê, bia hơi, bơm sửa xe máy, xe đạp.
Công cuộc xây dựng lại toàn bộ Nguyễn Kỳ Viên dự kiến sẽ kéo dài trong hai năm, do ông Nguyễn Kỳ Quặc cùng con trai Nguyễn Kỳ Tác, con rể Đinh Mạn, được giao quản lý thi công. Đích thân ông Cục đã chầu chực hàng tuần lễ, mời bằng được thầy Cao, một thầy phong thuỷ và tướng số giỏi nhất vùng về tính toán giúp. Bản vẽ thiết kế toàn cảnh và thiết kế chi tiết đặt hàng Viện Quy hoạch và Kiến trúc thực hiện. Đúng như lời dặn của Cụ Hồ: "Còn non còn nước còn người. Thắng giặc Mỹ ta sẽ xây dựng hơn mum ngày nay". Nguyễn Kỳ Viên sẽ to đẹp gấp mười lần ngày xưa.
Hãy xem bản vẽ tổng thể do kiến trúc sư vừa tốt nghiệp loại ưu Nguyễn Kỳ Tác, con trai út ông Cục phác thảo, để mường tượng ra một Nguyễn Kỳ Viên của ngày mai: Bắt đầu từ ngoài con đường rẽ cuối làng vào là chiếc cổng lớn có hàng đại tự chữ Hán kèm chữ Quốc ngữ: Nguyễn Kỳ Viên Nguyễn Kỳ Từ Đường" với bốn hàng trụ biểu, chia thành cổng lớn và hai cồng phụ, hai trụ chính cao tới hơn mười mét, như hai ngôn tháp. Tiếp đến là chiếc hồ lớn được tạo dáng và kè bờ bằng đá hộc miết mạch xung quanh như những ho bơi của các khu resort hay các khách sạn quốc tế năm sao. Giữa hồ là đảo Ngọc, lầu bát giác, được nối bởi Nguyệt Kiều điệu đàng như một cầu cổ trong Tử Cấm thành của Bắc Kinh. Chiếc sân chầu ngày xưa nay sẽ mở rộng hơn và được lát bằng thứ gạch bát Giếng Đáy đỏ au. Quan trọng nhất, vĩ đại nhất, không thua kém gì nhà Thái Học ở Văn Miếu Quốc Tử Giám là ngôi từ đường chi họ Nguyễn Kỳ.
Năm gian nhà phỏng theo kiểu cổ, đầu đao cong vút. Xi măng sắt thép toàn loại thượng hạng, ngói mũi hài Hương Canh, gạch xây, gạch ốp lát Giếng Đáy, đồ gốm sứ Bát Tràng. Riêng phần gỗ, thì đừng đùa với thợ xẻ làng Động, toàn chủng loại sưa, trắc, lim, lát, vàng tâm… Độc đáo nhất là những bức chạm trổ đầu hồi, những bình phong, trụ, xà đều bằng loại gỗ sưa có màu đỏ thẫm và hương thơm đặc biệt, giá được tính như gỗ trầm, vài trăm nghìn đồng một kilôgam, thứ đến là hàng cột cái hai mươi tư chiếc, toàn một thứ gỗ lim lõi đặc chở từ những cánh rừng Thượng Lào về, trong đó mười hai chiếc cột giữa, mỗi cột cao tới bẩy mét, đường kính khoát ba mươi phân, không thua kém gl những cột đình được xếp hạng di tích.
Phần diện tích tuy nhỏ nhưng được đầu tư nhiều công sức, tiền bạc là phần hậu cung chuôi vồ ở gian chính giữa nhà thờ. Gian hậu cũng được xây cao vượt lên, kiến trúc theo lối nhà chồng diêm tám mái, có lan can, cửa kính lùa chạy xung quanh. Đây là điện thờ, với những khán thờ cổ xưa, những báu vật của chi họ, như gia phả, sắc phong, mũ mãng, triều phục, ấn kiếm, tàng thư…
Trong những thứ gia bảo được thờ ở ngôi từ đường mới, sẽ có một linh vật đặc biệt do chính ông Cục lưu giữ còn hơn con ngươi của mắt mình. Rồi tự tay ông sẽ bí mật đặt linh vật này vào trong hộp đựng sắc phong của chi họ.
Đó là một sợi dây thừng, tím đen những vết máu, đầu dây lòn thít chặt một ngón chân cái đã thâm xỉn, như một mẩu gỗ lim.
COCKOO
13-05-2009, 10:57 AM
THỜI CỦA THÁNH THẦN
Chương 2
Cục
Năm ấy, hết tháng hai rồi mà trời vẫn rét ngằn ngặt, cánh mạ chiêm ở đầu làng, ba lần gieo, lần nào hạt mộng cũng thâm đen, không chịu nẩy mầm.
- Trời rét này phải quải thêm gio bếp. Giữ cho mộng ấm chân, thầy nó ạ! - Sớm tinh mơ, chị hai Phúc dậy khoác tấm áo bông, nói với chồng.
- Còn sớm lắm. Sương giăng mờ mịt thế kia. Đợi hửng rồi hãy đi. - ông Phúc húng hắng ho, tung chăn trở dậy.
- Thầy nó trông các con giúp tôi. Tôi đi ù một lát rồi về. Người còn rét muốn rụng ngón tay, nghĩ càng thương cây mạ. Siêu nước sôi tôi ủ trên bếp thầy nó pha trà uống đi nhé. Nhớ nhắc bà ém chăn kín cho thằng nhỏ…
Đôi thúng gio lèn chặt vít cong chiếc đòn gánh, nhún nhẩy theo dáng người mềm mại của chị hai Phúc ra đồng. Ông Phúc nhìn theo vợ, thở dài. Mang tiếng lấy chồng là ông Cử, vừa có nghề bốc thuốc, vừa có nghề dạy học, lại cai quản một cơ ngơi bề thế nhất làng, mà chị hai Phúc cũng chẳng khác gì một tá điền. Cũng thức khuya dậy sớm thắt lưng con cón ra đồng từ sớm tinh mơ, về nhà lúc đã nhọ mặt người. Ngoài tháng năm, ngày mười phải thuê thêm thợ cày cấy, gặt hái, còn lại những lúc nông nhàn, bao nhiêu công việc đồng áng, nhà cửa, một tay chị làm cả. Cả làng Động ai cũng lấy ruộng rau muống, chum tương, vại dưa, vại cà, hũ mắm, bè khoai khô, sào khoai lỗ… nhà chị hai Phúc làm chuẩn mực. Những thứ lương thực thực phẩm dự trữ chiến lược ấy toàn một tay người đàn bà mới ngoài hai mươi tuổi ấy lo liệu. Chắt bóp, tằn tiện, căn cơ là phẩm chất cố hữu đã được truyền từ đời cụ kỵ, sang đời bà, đời mẹ, tới đời chị hai Phúc.
Ra khỏi luỹ tre làng, gió buốt như táp vào mặt. Gánh gio có lúc như muốn quay tròn, vì gió. Đang định tạt xuống cánh mạ, chị hai Phúc bỗng đứng sững lại, hai chân như chực khuỵu xuống, khắp người sởn gai ốc. Có tiếng trẻ con khóc thét ở chân gò ông Đống trước mặt. Tiếng khóc hệt như tiếng cậu ba Vọng, thằng con trai thứ ba, mới vừa đầy tháng tuổi của chị. Giữ tay trên hai dẻ quang, chị hai Phúc hơi xoay người lại phía làng để lắng nghe. Hay là thằng bê giật mình, thức dậy không thấy mẹ? Không phải. Chị trấn tĩnh lại. Rõ ràng tiếng khóc phát ra từ bụi tầm xuân trên gò ông Đống trước mặt. Thần gốc đa, ma ông Đống. Hay là ma đói hiện về định bắt nạt người? Chị Phúc toan bỏ gánh gio, chạy về nhà.
Nhưng rồi tiếng khóc ngằn ngặt của đứa bé cứ níu chân chị lại. Chị đặt hai thúng tro xuống, cầm ngang chiếc đòn gánh như thứ vũ khí tự vệ, rồi quả quyết bước tới.
Cái gì kia? Một búi giẻ rách thâm đen bung ra, lăn từ gốc bụi tầm xuân xuống vệ cỏ, để lộ một cục thịt đỏ hỏn. Chị hai Phúc muốn bổ chứng khi nhìn rõ khuôn mặt đứa trẻ với đôi mắt sưng húp, cái mũi trắng nhợt, cái mồm cá ngão khóc ngằn ngặt. Một đứa trẻ hoang thai. Cuống cuồng như chính đứa con của mình bị ai đó bắt trộm mang bỏ giữa đông, chị Phúc cúi xuống ôm cả đứa bé và húi giẻ rách vào làng, kéo chiếc áo tơi che gió lạnh, rồi tất tả chạy về nhà.
Lúc đó, ông Cử Phúc đang ngồi xếp bằng trên sập gụ. Chén trà đầu tiên trong ngày và hơi thuốc lào cần vương vít từ miệng chiếc điếu bát băng đồng thau sáng bóng đang làm ông ngây ngất. Từ mấy chục năm nay, thói quen buổi sáng thức dậy của ông Cử Phúc là vậy. Ông có thể ngồi hằng giờ, cho tới khi cạn ấm trà ủ trong giỏ tích và say lơ mơ trong khói thuốc lào. Thường thì ông tự làm cho đầu óc mình trống rỗng. Ông không nạp cũng không giải một thứ thông tin gì trong não bộ. Đây là một phương pháp dưỡng sinh ông tự luyện cho mình. Và thấy rất hiệu quả không chỉ cho não bộ mà cả toàn bộ hệ kinh mạch.
Nhưng sáng nay, thông lệ đã bị phá vỡ. Suốt đêm qua, và cả bây giờ, trong đầu ông vẫn bị ám ảnh bởi lá số tử vi của thằng cu Vọng: Nhân đầy tháng con, cụ Nhiêu Biểu, thầy dạy của ông, đã lập cho thằng bé lá số tử vi. Hôm qua, suốt cả buổi chiều, hai thầy trò đã cùng giải chi li đến từng tiểu hạn. Mệnh vô chính diệu. Tuần Triệt ở cung Thân. Thiên liệt, Thiên khốc ở cung Phụ mẫu. Lưu hà, Kình dương ở cung Di, Thớt sát, Phá quân, Tham lang trực chiếu cung Mệnh. Thái dương, Thái âm, Thiên lương đều ở cung Hãm địa. Số thằng này, y hệt như hai thằng anh, suốt đời phát vãng, lưu tán.
COCKOO
13-05-2009, 10:58 AM
Nhắm mắt lại, ông Cử vẫn nhìn thấy từng vị trí an sao của thằng con trai. Kỳ lạ nhất là cả ba lá số của ba thằng con ông đều có sao Kình dương, Kiếp sát đóng ở cung Phụ mẫu. Riêng thằng Vọng, vòng đại hạn từ 36 đến 48 có sao Lưu hà, Thiên mã trực chiếu cung Mệnh, có thể chết vì sông nước.
- Anh phải có một thằng con nuôi - Cụ Nhiêu Biểu trầm ngâm giây lâu, rồi nhìn thẳng vào ông Cử nói chậm rãi - Tam nam bất phú đã đành. Nhưng nếu có thằng con nuôi sẽ thành tứ hổ bất nhược, nó sẽ phá cái thế Tuần, Triệt, gánh cho ba thằng con anh cái mệnh phát vãng, lưu tán. Còn tôi, còn anh, cứ ngẫm mà xem. Đem lá số của ba thằng đối chiếu với anh, tôi lo lắm. Anh biết lúc an sao cho thằng ba Vọng, tôi giật mình về điều gì không?
- Dạ, có phải vì cháu mệnh Vô chính diệu? - ông Cử dè dặt trả lời cụ Nhiêu.
- Cũng chỉ một phần. Tôi lo nhất là Tuần Triệt đều đóng ở cung Thân. Sao Tử vi hãm địa ở cung Di. Đối chiếu với Chu dịch, thằng bé ứng vào quẻ Độn. Kiền trên, Cấn dưới… Độn tức là lui vì vậy quẻ Độn mới nối quẻ Hằng. Độn là lui, là tránh, bỏ chỗ này đi chỗ kia. Nó là quẻ dưới trời có núi, trời là vật ở trên, tính Dương tiến lên, núi là vật cao vót, hình tuy cao vót mà thể thi là vật đậu. Có Tượng tiến lên mà bị đậu lại không tiến lên, trời bèn tiến lên mà bỏ nó. Dưới lấn lên mà trên bỏ đi, ấy là xa nhau, cho nên là nghĩa lánh đi. Hai hào âm sinh ở phía dưới, là khí âm đương lớn sắp thịnh, khí dương phải tiêu mà lui, kẻ tiểu nhân thịnh dần, đấng quân tử lui mà tránh nó, cho nên là trốn…
Những điều cụ Nhiêu Biểu nói, khiến ông Cử hoang mang. Ông đi lại kệ sách toan lấy cuốn Kinh Dịch xuống xem lại, thì có tiếng bước chân hốt hoảng của vợ.
- Kìa u nó, có việc gì phải không?
- Tôi bắt được đứa bé này ngoài gò ông Đống, thầy nó ạ - Tiếng chị hai khản đặc, run run - Có người hoang thai vứt nó trong bụi cây. Thoạt đầu nghe tiếng đứa bé khóc, tôi cứ tưởng ma trêu…
Ông Cử Phúc lật đật lấy tã lót của cậu ba Vọng, giúp vợ thay cho đứa bé. Có sự trợ giúp của chồng, chị hai đã hết run.
Bằng những động tác thuần thục và kinh nghiệm của người mẹ, chị ủ đứa trẻ trong lớp tã lót mới. Mở ra mới biết đó là một bé trai, dái thâm như quả hồng xiêm rụng. Ngay phía dưới rốn nó, có một vết da màu lông chuột bằng đồng xu, như một vết đánh dấu vô tình của tạo hoá.
- Nhà mình có phúc rồi - chợt nhớ đến lời cụ Nhiêu Biểu, ông Cử Phúc gật gù nói với vơ, - nó đang đói lả đi kìa. U nó cho bú đi.
Chị hai Phúc cởi khuy áo ngoài, thốc tấm yếm màu hoa hiên, lộ ra bầu vú trắng bóc, căng tròn. Ấn nhẹ hai ngón tay vào núm vú cho sữa chảy ra, rồi chị ấp miệng thằng bé vào ngực mình. Choàng tỉnh sau cảm đói lả và quặn rét, thằng bé ngoạm chặt núm vú, như một gã háu ăn và tham lam, nó mút chùn chụt.
Nhìn cái miệng nhỏ xinh loe ra, đôi má hõm vào với một ham muốn của bản năng sinh tồn, người đàn bà bỗng động lòng trắc ẩn. Những va chạm hít hà vô thức đã dội vào tâm hồn vốn đa cảm và nhân hậu của chị, đẩy nước mắt trào ra hai khoé.
- Ầu ơ đói lắm đây mà. Nó tệ quá phải không? Nỡ vứt bỏ người ta giữa bụi tầm xuân. Nó đâu còn là cái giống người, đúng không? - Chị nói chuyện với thằng bé, nhìn vào đôi mắt ti hí như mắt chuột của nó với tất cả tình cảm thân thương của người mẹ. Chị mường tượng ra một người đàn bà trẻ đang như điên dại ngoái đồng. Người đàn bà ấy đang bị dồn đuổi đến bước đường cùng. Chị ta là ai? Một cô gái trê bị ăn phải bùa ngải lầm lỡ hay một thân phận lẽ mọn bỉ ruồng bỏ? Sao chị ta không để lại một lời nhắn gửi, một dấu tích gì? Sao chị ta không mang đứa trê đến một nhà thương làm phúc hay gửi gắm ở một ngôi chùa? Thằng bé sẽ lăn xuống ruộng, bị sặc trong bùn, sẽ bị kiến bu, rắn cắn, quạ mổ, hoặc bị chết rét vì gió bấc, mưa phùn…
Bất giác chị hai Phúc thảng thốt nhìn ra khoảng trời xám ngắt mờ mịt cuối làng. Vẳng trong gió hình như có tiếng ai gào khóc. Chị như nhìn thấy rõ một người đàn bà đầu tóc xoã xười quần áo tơi tả, bộ mặt vô hồn đang vật vờ trên đường đồng hun hút, đang lê bước trở lại bụi tầm xuân trên gò ông Đống với nỗi dày vò và trái tim giằng xê.
Trong khi chị hai Phúc thầm chuyện trò với đứa bé thì ông Cử Phúc lặng lẽ đi lên nhà thờ. Năm gian điện thờ im phắc. Mùi hoa huệ thơm thoảng, tinh khiết và mê hoặc. Khoác chiếc áo the, đội khăn xếp, ông Cử thay nước cúng rồi thắp một tuần nhang. Khói hương bảng lảng gợi không khí thâm nghiêm huyền bí ông Cử tưởng như mình đang hầu chuyện các bậc tiền nhân.
- Duy… Việt Nam quốc, Sơn Minh tỉnh, Phương Đình huyện, Phương Tú xã, làng Động trung thôn. Tin thần tín chủ Nguyễn Kỳ Phúc, kính bái Cao tằng tổ khảo, Cao tằng tổ tỉ, Bá thúc huynh đệ, Cô di tỉ muội, Táo phủ thần quân, Lục vị gia thần, trăm muôn vạn mớ lạy…
Ông Cử Phúc như hồi tưởng lại cả một chặng đường xa lắc từ thời các bậc tiền nhân mở đất ở làng động, cho tới đời ông, đời cha mình. Ông báo cáo về việc ba thằng con trai của ông có thêm một thằng em trai nữa. Ông kính xin tổ tiên gia ân phúc cho thằng bé, cho nó một cái tên của dòng họ Nguyễn Kỳ.
COCKOO
13-05-2009, 10:59 AM
- Con chó này háu ăn lắm. Mình để nuôi, thầy nó ạ - Chị hai Phúc nói khi ông Cử từ nhà thờ đi xuống. Gương mặt chị bừng sáng như đức Phật Quan Thế âm vừa cứu vớt một sinh linh. Đôi mắt rời rợi một thứ ánh sáng tràn ngập hạnh phúc.
Cái cảm giác nhộn nhột đê mê được truyền từng tia sữa, được đùm bọc che chở cho cái sinh linh bé nhỏ đang nằm gọn trong lòng chị với sự thoả thuê, mãn nguyện, an bàng, khiến chị không giấu nổi chồng những viễn cảnh ngày mai - Để hai con chó cùng bú chung, chúng càng thi nhau hay ăn chóng lớn, thầy nó ạ. Nhà mình thêm một suất đinh, là tứ hổ, chẳng sợ thiên hạ bắt nạt.
Ông Cử Phúc cảm thấy như tâm hồn ông đang được dội từng đợt sóng hạnh phúc. Ông lại khám phá thêm một phẩm chất tuyệt vời, một tấm lòng vị tha nhân hậu của người bạn đời đã cùng ông ngọt bùi cay đắng. Mới đó mà đã sáu năm.
Lại nhớ cái năm chị cả Phúc bị chết vì hậu sản, thằng Khôi mới vừa hai tuổi. Hằng tháng ròng, đêm đến ông ngồi chong đèn thở dài thườn thượt, khi thằng cu Khôi khóc ngằn ngặt trong lòng bà nội vì nhớ hơi mẹ. Thương con một phần, nhưng xót mẹ bội phần. Đợi hết giỗ đầu chị cả Phúc, ông bằng lòng để bà Đồ Kha sửa cơi trầu xin cưới Ân.
Cô Vũ Thị Ân, mười bẩy tuổi, là con út cụ Nhiêu Hanh, một địa chủ bị sa sút của vùng bãi trồng dâu dệt lụa. Ngày còn sinh thời cụ Đồ Kha, giữa cụ đồ và cụ Nhiêu đã có lời hứa sẽ gả con cho nhau để làm chỗ thông gia đi lại. Hiềm nỗi, năm anh con trai cụ Đồ Kha đến tuổi thành gia thất thì con gái cụ Nhiêu Hanh quá nhỏ. Hai bên đành thất hứa. Năm chị cả Phúc mất, cô Ân mười sáu tuổi, nhiều trai làng ngấp nghé, nhưng cụ Nhiêu Hanh nhất định chỉ đánh tiếng với cụ Đồ Kha bà, muốn nhắc lại lời hứa xưa. Cho nên, với ông Cử Phúc, việc cụ Nhiêu Hanh gả con gái yêu cho ông là một nghĩa cử cao cả, một kỳ vọng lớn lao, giống như vua Trần xưa vì nghĩa lớn, vi đại sự quốc gia mà gả Huyền Trân công chúa cho vua Chiêm Chế Mân vậy. Cô Ân kém ông Cử Phúc hai mươi tuổi đáng tuổi con, lại đang tuổi dậy thì, đẹp rờ rỡ như đoá hoa hàm tiếu. Cuộc hôn nhân quá bất ngờ đối với cô Ân, nhưng lại tất yếu như định mệnh, như đạo lý của Khổng Nho "cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy", khiến cô chỉ xao xuyến, lo âu và hơi có phần hoang mang khoảng một hai tuần trước ngày cưới. Người đàn ông tục huyền với cô đã có một cậu con trai ba tuổi, lại đã qua kỳ tam thập nhi lập khiến cô lo lắng đến trách nhiệm và bổn phận hơn là chờ mong hạnh phúc. Chao ôi, cái đêm hợp cẩn, là một đêm nhớ đời đối với cả hai người.
Cô Ân nằm nép trong góc giường, người bó chặt trong bộ quần áo cưới ban ngày, khóc thút thít. Nỗi sợ hãi, chen một chút tủi thân, một chút nhớ cha mẹ, một chút mặc cảm… làm cho khắp người cô cứ run lên từng đợt. Ông Cử dường như nhận rõ những điều đó. Ông nằm bất động, hai tay khoanh trước ngực, mắt nhìn chong chong lên nóc buồng. Ông cảm thấy mình vừa như có lỗi với người vợ quá cố, vừa như quá tàn nhẫn, ích kỷ, không xứng đáng đối với sự trinh trắng, ngây thơ của Ân. Thật lạ, trong lòng ông không hề mảy may chút dục vọng. Những ý nghĩ khiến tâm hồn ông trong suốt, thánh thiện. Ông lặng lẽ khóc và ngủ thiếp đi từ lúc nào.
Đêm tân hôn trở thành một đêm thuần khiết, không giới tính. Đó là cột mốc dẫn dắt và định hướng cuộc hôn nhân của họ mỗi ngày thêm tràn đầy một thứ tình yêu mang đậm màu sắc đạo lý và lòng biết ơn, trân trọng, nâng đỡ nhau. Ba năm sau, cô Ân, giờ được mọi người gọi là chị hai Phúc, bà Cử Phúc, sinh bé Nguyễn Kỳ Vỹ, hai năm sau nữa sinh tiếp bé Nguyễn Kỳ Vọng. Ba anh em nhưng ít ai biết chúng cùng cha khác mẹ. Thậm chí cậu cả Khôi được chị Ân nuông chiều hơn hai đứa nhỏ. Mọi chuyện từ ăn mặc, thuốc men, học hành bao giờ chị cũng xếp Khôi ở hàng số một. Khôi là anh cả, phải được ưu tiên đặc biệt thì sau này mới "quyền huynh thế phụ", giúp các em lo việc gia đình - Chị Ân thường nhắc với chồng như thế…
- Tam nam bất phú. Giờ mình lại có thêm một nữa là tứ nam. Tứ hổ bất nhược, nhà nó ạ - ông Cử Phúc kéo một mồi thuốc lào lơ mơ nhìn cụm khói tản trong gió, tự gật gù vì một ý tưởng chợt đến - Mình sẽ đặt tên cho thằng bé là Nguyễn Kỳ Quặc, u nó ạ. Nó đến nhà mình là một điều kỳ quặc, bất ngờ không giải thích nổi. Nhất định là nó không thể mang hoạ, mà chỉ mang phúc đến, như cụ Nhiêu Biểu đã nói. Dù thế nào tôi với u nó cũng sẽ nuôi thằng bé thành người, coi nó như con đẻ, như thằng Khôi, thằng Vỹ, thằng Vọng. Nó kém thằng Vọng một tháng tuổi, phải chịu làm em. Để tôi lấy cho thằng bé một lá số. Cứ coi như giờ này, ngày này, tháng này u nó đã sinh ra thằng Quặc.
COCKOO
13-05-2009, 11:02 AM
Nguyễn Kỳ Quặc đã được tái sinh ở cửa nhà ông bà Cử Nguyễn Kỳ Phúc như thế. Nó cùng với cu Vọng bú chung một bầu vú, nằm chung một nôi, một vòng tay ấp, mặc chung tã lót, áo quần. Nhiều người hiếm con đến nài nỉ, thậm chí xin chuộc một món tiền lớn để được nhận thằng Quặc làm con, nhưng đời nào ông bà Cử Phúc chịu nhường.
Hai đứa trẻ, như hai con chó con, suốt ngày bám váy mẹ. Chúng được bà nội, cụ Đồ Kha, đặt cho hai cái tên xấu xí cho dễ nuôi: Vện và Cục. Cu Vện thì rõ rồi, Vện đọc chệch từ Vọng. Nhưng cái tên Cục thì lại có nguyên cớ. Số là khi cu Quặc và cu Vọng biết chạy lon ton, biết gọi u, gọi bà, cũng là lúc chúng biết giành nhau củ khoai, quả táo, hay những thứ đồ chơi do ông Cử đẽo gọt từ gỗ, tre. Một lần hai đứa tranh nhau một quả bưởi. Trái cây vẫn còn xanh nên không thể ăn được, nên cụ Đồ Kha cho hai thằng cháu đá bóng. Cu Vọng cả thèm chóng chán. Đá một lúc, nó đòi bổ ăn, và cứ ôm chặt giữa chân khiến cu Quặc không lấy được. Quặc liền chạy đi kiếm một thanh tre phang vào đầu vào mặt thằng Vọng.
Đến khi cụ Đồ Kha phát hiện ra hai đứa cùng khóc thét, một đứa cố giữ quả bưởi, một đứa cố giành lại, thì một bên má thằng Vọng đã bị cào rách sưng vù, máu chảy toe toét. Sau này thằng Vọng bị một vết sẹo ở đuôi mắt trái. Tên Cục được bà cụ đồ gọi thằng Quặc từ lần ấy.
Càng lớn, thằng Vện và thương Cục càng lộ rõ sự khác biệt của hai dòng máu. Vện đậm người, da trắng, mắt nai, tính tình nhút nhát, hiền lành. Cục cao vỏng, mặt xương, mũi cao, mắt xếch pha màu xanh lơ, nghịch ngợm như quỉ sứ.
Vào năm thằng Vện và thằng Cục lên mười, có một người đàn bà lạ tìm đến nhà ông Cử Phúc. Chị đóng vai một con bệnh nón mê úp chụp, khăn vuông đen quấn kín mặt, bụng lùm lùm như chửa năm sáu tháng. Những con bệnh tìm đến ông Cử Phúc nhiều người từ những nơi rất xa, có người đến ăn nghỉ để chữa bệnh hàng tuần. Vì thế việc người đàn bà lạ đến đây là sự thường tình. Tuy vậy, sự xuất hiện của người đàn bà chứa lần này lại khá thận trọng. Chị kín đáo nhìn quanh. Chị dừng lại ngoài cổng dò xét động tĩnh, rồi nhẹ nhàng đánh tiếng vào nhà.
Ông Cử bỗng giật mình khi người đàn bà bỏ khăn ra. Một gương mặt trái xoan trắng hồng, đẹp một cách sắc sảo và cương nghị với đôi mắt phượng xếch ngược như mắt nàng Tây Thi trong vở tuồng cổ. Thoáng nhìn, ông Cử biết ngay người đàn bà trạc hai lăm, hai sáu tuổi này hoàn toàn không bệnh tật gì.
- Thưa ông, tôi vừa từ chỗ anh cả Khôi đến.
- Khôi nào nhỉ? - ông Cử Phúc làm ra vẻ ngạc nhiên.
- Anh cả lôi con trai ông - Người đàn bà nhìn ông với ánh mắt như bảo rằng chị đã biết hết cả, không cần rào đón nữa.
Chị ngó nhìn quanh đầy cảnh giác rồi giở tấm vải quấn quanh bụng, lấy ra một lá thư được gấp rất nhỏ:
- Anh Khôi có thư cho ông.
Ông cử mở kính, đọc những dòng chữ thân thuộc:
"Kính gửi thầy,
Người cầm thư này là chị Cam, cùng nơi làm việc với con. Chị Cam sẽ nói với thầy về những điều con không tiện viết trong thư. Thầy u cùng các em có khoẻ không? Con vẫn luôn nhớ gia đình ta. Kính mong thầy khang kiện.
Con trai, Khôi".
Giờ thì ông Cử không nhìn người đàn bà với con mắt của một thầy thuốc đối với bệnh nhân nữa, mà ngược lại, chính ông đang có tâm trạng của một con bệnh. Người đàn bà đến gặp ông đây chính là một cán bộ Việt Minh. Rất có thể chị ta là cấp trên của con trai ông.
- Tôi hỏi chị khí không phải. Tình hình sức khoẻ và công việc của cháu Khôi nhà tôi có tốt không ạ?
Thay vì câu trả lời, Cam lấy từ trong lần áo lót ra một tấm ảnh chân dung đưa cho ông Cử.
- Anh Khôi khỏe mạnh lắm ông ạ. Đây là ảnh anh ấy vừa chụp. Ông thấy ra dáng một chàng trai khôi ngô tuấn tú không? Anh ấy gửi ảnh này về cho ông để ông làm cho một tấm thẻ căn cước. Sắp tới Khôi sẽ có việc vào trong thành Hà Nội.
Ông Cử run run đón bức chân dung đứa con trai suốt ba năm nay ông không gặp mặt. Vậy là thằng Khôi của ông đã trở thành một đấng nam nhi rồi. Trông ảnh không ai bảo rằng nó mới mười tám tuổi.
Người đàn bà kéo ghế ngồi sát ông Cử, giọng nhỏ lại:
- Chắc ông cũng biết, lực lượng Việt Minh đang rất lớn mạnh. Anh Khôi đang được thượng cấp đặc biệt tin cậy giao nhiều trọng trách. Tại Việt Bắc, chiến cuộc Thu - Đông đã giáng cho quân Pháp những đòn chí mạng…
- Thưa cô. Thế lực quân Pháp ở đồng bằng Bắc Bộ còn hùng hậu lắm - ông Cử lắc đầu, có ý phản bác những điều Cam vừa nói - Vụ quân Pháp nhảy dù xuống Phương Đình, Ba Thấu vừa rồi khiến Việt Minh bị mất chỗ đứng…
- Pháp nhảy dù trong thế yếu. Nó chứng tỏ Pháp phải chống trả với Việt Minh ở ngay sát nách Hà Nội. Theo nhận định của thượng cấp, sắp tới Pháp sẽ thiết lập một hệ thống đồn bốt dọc tả ngạn sông Điền, lập chế độ tề nguỵ để bảo vệ vòng ngoài Hà Nội và khống chế Việt Minh ở vùng tự do Liên khu Ba. Làng Động của ông là một điểm lập bốt của địch.
- Vâng, thưa cô. Bọn chúng đang chọn đình Đụn làng tôi để lập bốt. Các cụ phụ lão trong làng đang có đơn kêu lên quan phủ, quan tỉnh, phản đối.
- Thưa ông Cử. Tôi được thượng cấp chỉ thị đến gặp ông để bàn về chuyện này. Chúng ta phải tương kế tựu kế. Địch muốn thiết lập hệ thống chính quyền cai trị ở vùng tề, thì Việt Minh cần biến hệ thống đó thành cơ sở của mình để phục vụ kháng chiến. Vậy là chúng ta phải có một đội ngũ những người làm việc hai mang, ban ngày làm việc với địch, ban đêm là người của ta.
- Tôi hiểu… Nhưng đây là một công việc không dễ dàng…
- Để làm được việc này, Việt Minh phải dựa vào những người yêu nước như ông, như các bạn của ông là các ông Hội Thiện ở Nghi Sơn, ông Đồ Sắc ở Chi Hạ, ông Lang Kiêu ở Trầm Bồi…
Ông Cử Phúc tròn mắt, nhìn Cam đầy kinh ngạc.
- Ủa, sao cô lại biết những người bạn của tôi?
- Không có việc gì mà Việt Minh chúng tôi không biết - Cam nháy mắt, cười, nụ cười vừa tinh nghịch vừa đẹp đến mê hồn - Chúng tôi còn biết tuần trước tay đồn trưởng Trương tổ tôm và ông đã từ chối. Trương Phiên là tay chơi tổ tôm khét tiếng lâu nay. Trong khắp huyện Phương Đình này, Trương Phiên biết chỉ có ông Cử Phúc đáng mặt là đối thủ tổ tôm của hắn mà thôi…
Ông Cử Phúc rùng mình, ớn lạnh.
- Dạ, thưa cô tôi đâu dám… Tôi không thể hầu tổ tôm ông đồn trưởng Phiên, khi các bô lão làng Động đang phản đối việc Tây lập bốt ở đình làng.
- Nếu ông nhận lời làm lý trưởng làng Động theo sự bố trí của Việt Minh; thì ông lại cần phải chơi tổ tôm với đồn trưởng Phiên để nắm được nhiều thông tin của địch. Nhân đây xin lưu ý với ông rằng viên đồn trưởng Tây lai Trương Phiên mới gia nhập làng Tây, là một hạt giống mà người Pháp muốn gieo ở vùng đất này. Trước khi về đồn trú ở đây, Trương Phiên đã tham gia trận càn ở vùng Khu Trắng và đã phạm một tội ác tày trời…
- Tôi biết vụ sát hại này - ông Cử thở dài - Chính tay Trương Phiên đã bắn chết ba mươi du kích rồi chặt đầu treo lên cành đa giữa đồng Trầm Khê.
- Nợ máu này phải trả - Giọng Cam đanh lại - Theo chỉ đạo của thượng cấp, tên ác ôn này ta muốn khử lúc nào cũng được nhưng vì hắn là một đầu mối quan trọng nên ta cần khai thác. Vì thế nhiệm vụ của ông Cử là phải kết thân với hắn. Càng tỏ ra thân thiết càng tốt. Tiếp cận kẻ địch tốt nhất lúc này lại là lực lượng nhân sĩ trí thức như các vị. Chính vì vậy thượng cấp rất muốn ông vận động các ông Đồ Sắc, Lang Kiêu, Phó Đại nhận làm các chức sắc cho địch. Đặc biệt thượng cấp muốn nhờ ông thuyết phục người bạn kết nghĩa của ông là ông Hội Thiện ra làm Chánh tổng cho Pháp để có điều kiện giúp đỡ Việt Minh…
Ông Cử Phúc nhìn Cam đầy thán phục. Không cái gì qua mặt cô ta được. Đúng là Hội Thiện là bạn chí cốt của ông, thân nhau tới mức sẵn sàng đổi vợ như Lưu Bình - Dương Lễ ngày xưa. Hai người cùng là môn đệ ruột của thầy Đồ Chuông, người bị lỡ chuyến Đông Du với Nguyễn Thượng Hiền vì vướng tang mẹ, đành về quê ở ẩn, mở trường dạy học. Hội Thiện và Cử Phúc từng cắt máu ăn thề với nhau ở chùa Phổ Hướng, kết nghĩa huynh đệ suốt đời sướng khổ, hoạn nạn có nhau.
- Theo tôi biết, người Pháp đã đích thân gặp ông Hội Thiện bạn tôi ba lần, tha thiết mời ông ấy ra làm Chánh tổng, nhưng bạn tôi từ chối - ông Cử nói.
- Vậy thì ông hãy khuyên ông Hội Thiện nhận làm Chánh tổng đi. Pháp đang rất cần sự hợp tác của các nhân sĩ trí thức đã từng được đào tạo ở các trường do người Pháp xây dựng, lại từng giao du với các văn thân yêu nước. Ông Hội Thiện là người mà Pháp rất cần lôi kéo, tranh thủ. Nếu ông Hội Thiện nhận vào tổ chức Việt Minh để lọt vào hàng ngũ Pháp là một hành động yêu nước lúc này. Việt Minh sẽ có người liên lạc và có các chỉ thị với ông Hội Thiện bất cứ lúc nào. Chính phủ Cụ Hồ sẽ có ghi nhận và có phần thưởng xứng đáng khi nước nhà độc lập.
Cuộc trò chuyện bí mật với người đại diện của Việt Minh đã tạo một bước ngoặt trong đời ông Cử Phúc, đưa ông từ một nhà nho yếm thế có tư tưởng yêu nước chung chung thành một người dám dấn thân, hành động, từ một người bàng quan, đứng ngoài cuộc kháng chiến thành người của Việt Minh, nhận những chỉ thị của Việt Minh để hoạt động trong vùng tề. Hai tháng sau cuộc gặp gỡ với Cam, ông Cử Phúc đã nhận chức lý trưởng càng Động, chính thức mang tên Lý Phúc, tập hợp quanh mình một hệ thống chức dịch có chung chí hướng như ông: Hoạt động hai mang, ban ngày, bề ngoài thì làm việc cho chính quyền bù nhìn tay sai của thực dân Pháp, nhưng thực chất là người của Việt Minh cài cắm vào hàng ngũ địch. Những người bạn của ông như Đồ Sắc, Lang Kiêu, Chánh Thạp, Cửu Cao, Hội Thiện cũng đều được Việt Minh cài vào hàng ngũ địch như vậy.
Nhờ sự giới thiệu của ông Cử Phúc, Cam đã làm quen với ông Hội Thiện, con quan án sát trấn Kinh Bắc, người đã ngấm ngầm ủng hộ Đề Thám trong cuộc khởi nghĩa Yên Thế.
Hội Thiện là một trí thức kiêm điền chủ lớn, giao du rộng, bạn hữu nhiều và đặc biệt có uy tín với nhân dân trong vùng. Sau vài cuộc gặp gỡ với Cam, Hội Thiện đã tự nguyện gia nhập Việt Minh và đồng ý hoạt động hai mang, nhận chức Chánh tổng Phương Lâm, một tổng lớn của huyện Phương Đình tỉnh Sơn Minh.
COCKOO
13-05-2009, 11:03 AM
Giả trang một người đàn bà mua lông vịt và đông nát, Cam còn trở lại gặp ông Lý Phúc vài lần nữa. Một lần để lấy thẻ căn cước cho Nguyễn Kỳ Khôi và nhận tám trăm đồng bạc Đông Dương của bẩy địa chủ yêu nước trong huyện ủng hộ chính phủ kháng chiến Việt Minh, mấy lần sau là nhận sơ đồ hệ thống bố phòng của địch ở bốt làng Động và bốt Phủ.
Còn một mục đích nữa, chuyện riêng tư nhưng vô cùng thiêng liêng và hệ trọng trong những lần Cam đến gặp ông Lý Phúc. Mãi mãi sau này, ngoài Cam ra, không ai biết được chủ đích này của nàng. Đó là nỗi khắc khoải được nhìn thấy mặt thằng Cục.
Cái thằng bé, càng lớn trông nó lại càng khác lạ so với người anh em cùng tuổi với nó. Bây giờ, khi thằng Vện và thằng Cục đã lên mười và cùng theo học ở trường làng, chúng khác nhau như thìa với bát nhưng lại dính nhau như hình với bóng. Thằng Vện ẻo lả thư sinh, còn thằng Cục cao kều, mặt như Tây lai, mắt xanh, tóc xoăn râu ngô.
Nhiều người ở làng Động xì xầm với nhau rằng thằng Cục hao hao giống đồn trưởng Trương Phiên. Gã đồn trưởng Tây lai này khét tiếng cả vùng không chỉ về vẻ ngoài đẹp trai dễ làm xiêu lòng các cô các bà mà còn cả về sự hiếu sắc và tàn bạo của gã. Trong bất cứ cuộc càn quét tìm diệt nào, tay chân của gã cũng tìm ra một vài cô gái đẹp để dáng cho gã. Và bao giờ sau khi thưởng thức xong, gã cũng có cái thú là tháo khoán cho lũ đệ tử chơi hội đồng để gã vừa uống rượu vừa thưởng ngoạn. Bằng những chiến công tìm diệt du kích, xoá sổ nhiều ổ cộng sản, gã đã liên tục được gắn mề đay, thăng chức, được điều từ đơn vị lính cơ động về giữ chốt phòng thủ vành đai quanh Hà Nội. Ngay từ ngày đầu về đóng bốt làng Động, ai gặp đồn trưởng Trương Phiên cũng liên tưởng đến thằng Cục. Đặc biệt là ông Cử Phúc. Lần đầu tên đồn trưởng dẫn lũ lâu la đến nhà rủ ông đánh tổ tôm, ông kinh ngạc quá suýt kêu lên. Sao ông đồn trưởng này lại có nét hao hao giống thằng Cục con ông? Cũng một khuôn mặt Tây lai không nhầm lẫn được, đặc biệt là cái mũi thẳng dọc dừa, đôi mắt hai mí sâu phơn phớt xanh. Chỉ có điểm khác duy nhất là trán thằng Cục hơi ngắn và hẹp, trán ông đồn trưởng cao và gồ lên, dữ dội. Cũng may mà hôm ấy ông Cử Phúc trấn tĩnh lại được, và cũng may hôm ấy thằng Cục và thằng Vện đi học vắng, cho nên chính đồn trưởng Trương Phiên cũng không biết câu chuyện giống nhau kỳ lạ này.
Cam chú ý đến thằng Cục ngay từ lần đầu giả trang làm người đàn bà chứa tìm gặp ông Cử Phúc. Dường như đó mới là mục đích chính của nàng chứ không phải là nhiệm vụ của người cán bộ Việt Minh. Lần gặp thằng Cục đầu tiên ấy, Cam bàng hoàng lặng lặng, tưởng chừng tim nàng như ngừng đập. Nàng loạng choạng chực buông chiếc tay nải bên vai. Nàng phải đứng dựa vào gốc cây xoan cho khỏi ngã. Tự dưng những giọt nước mắt nối nhau chảy. Trong làn nước mắt nhoè mờ, nàng hình dung ra cái buổi chiều gió bấc ràn rát năm nào…
Có những lần, Cam không đến gặp ông Cử Phúc, mà chỉ đến để ngắm nhìn thằng Cục. Nàng không dám đến gần mà phải ngắm thằng bé từ xa, lúc nếp bên bụi tre đầu ngõ, lúc giả vờ nhồi sau đống rơm, lúc giả đò xuống rửa ở cầu ao. Rất ít khi thằng Vện tách rời khỏi thằng Cục. Chúng cùng nhau đi học về. Chúng tha thẩn bên bờ ao rình bắt những con châu chấu hoặc dùng hoa mướp vàng buộc vào cần câu để nhử những chú ếch cốm. Có lúc chúng chơi khăng, hoặc đi tìm những chạc cây và mọc bên mép nước để làm súng cao su. Buồn cười nhất là một lần Cam bắt gặp hai đứa chơi trò đái thi. Chúng đứng ở bờ ao, cùng tụt quần, cùng kéo chìm ra rồi thi nhau ưỡn người đái vào hai chiếc lá khoai nước xem đứa nào vừa đái xa vừa xuyên thủng được lá khoái. Cam để ý trong những cuộc chơi, bao giờ thằng Cục cũng tỏ ra thành thạo. Rõ ràng Cục đái xa hơn Vện. Nó nhanh nhẹn và đặc biệt hiếu động. Thằng Vện có vẻ phát tướng về văn, còn thằng Cục lại đặc biệt có tướng mạo và tư chất theo nghiệp võ. Càng ngắm, Cam lại càng thấy nó giống con người ấy lạ lùng.
Sao tạo hoá lại nghiệt ngã đến nhường kia? Nàng đã tàn nhẫn và thú tính đến mức đang tâm vứt bỏ nó như vứt bỏ nắm rẻ rách ngoài đồng, vậy mà nó vẫn sống, vẫn lồng lộng như một thiên thần. Sao tạo hoá không cho nó một dáng vẻ bình thường mắt đen, tóc đen, mũi tẹt như bao đứa trẻ khác của xứ sở này mà lại bắt nó phải mang tiếp hình hài của kẻ đang gây đau thương tang tóc, kẻ nợ máu với dân tộc nàng?
Quả là một trớ trêu của định mệnh, một trừng phạt khắc nghiệt với riêng nàng. Những ý nghĩ khiến trái tim nàng đau buốt. Nàng vừa hạnh phúc khi nhận ra giọt máu bỏ rơi của mình đã có một nơi nương tựa tin cậy, lại vừa dằn vặt, đau đớn khi biết mình đã vĩnh viễn mất nó.
Rình mãi, rồi Cam cũng tìm được cơ hội để gặp riêng thằng Cục.
- Này Cục. Cô trông cháu chằng giống con nhà ông bà Cử Phúc tẹo nào. Cháu là con nuôi phải không? - Cam đón đầu thằng bê lúc nó đang đuổi bắt một con nhái để làm mồi câu.
Cam cho nó gói kẹo caramen để làm quen. Lúc đầu, thằng Cục tỏ ra đặc biệt thích thú với thứ kẹo bọc giấy mà lần đầu trong đời nó được thấy, nhưng khi nghe đến chuyện con nuôi con đẻ thì nó trừng mắt, phẫn nộ:
- Bà chỉ nói bậy. Tôi với anh Vện là hai anh em sinh đôi.
- Cháu thử soi gương mà xem. Hai đứa chằng giống nhau tẹo nào… Với lại, cháu có một cái bớt màu lông chuột ở dưới rốn mà thằng Vện không có. Các bạn trong xóm hay bảo cháu là thằng con hoang nhặt ngoài bụi tầm xuân trên gò ông Đống, đúng không?
Thằng Cục cụp mắt xuống, vẻ mặt buồn thiu. Nó lén quay người, tụt quần nhìn nhanh xuống dưới rốn. Sao người đàn bà này lại biết cái bớt ở dưới rốn nó nhỉ? Người này đã nhìn thấy nó tắm ở ao đình hay bà ta là một phù thuỷ? Bà ta lại còn biết rõ cả bọn trẻ con trong làng nữa chứ. Đúng là bọn trẻ láo lếu, nhất là thằng Ngạnh vẩu con nhà Ngao hay gọi nó là thằng con hoang, thằng bị quạ thả ngoài đồng.
- Cô nói đùa thế thôi… - Cam bỗng nghẹn ngào.
Cử chỉ ấy khiến thằng Cục chú ý. Người đàn bà này thật lạ lùng. Phải cảnh giác. Bà ta lấy những cái kẹo đặc biệt quí hiếm này ở đâu để cho nó? Tặng kẹo thì phải vui lên chứ sao lại sụt sùi chực khóc thế kia?
- Này, cô bảo… Nhớ chia cho anh Vện kẹo để hai anh em cùng ăn nhé… Nhớ yêu thương nhau, đừng đánh nhau nhé…
Nói rồi Cam rút từ trong người ra một vật. Một chiếc vòng bạc có kèm chiếc vuốt hổ. Người nàng bỗng run bắn lên khi kéo thằng Cục vào lòng để đeo vào cổ nó chiếc vòng bạc. Nàng khóc. Những giọt nước mắt lớn chảy xuống tay thằng bé, khiến nó hoảng hốt vứt trả chiếc vòng, bỏ chạy.
***
Cam, chính là người mẹ trẻ đã bỏ thằng Cục ở gò ông Đống đầu làng Động mười năm về trước. Tên gọi khai sinh của nàng là Bướm, một cái tên thoạt nghe có vẻ thô lậu, nhưng lại đượm mầu phù phiếm, phong tình.
Theo lời ông Cai Sâm, bố đẻ của Bướm, thì mẹ nàng là con của một bộ tướng tài ba của nghĩa quân Đề Thám. Vào thời loạn lạc ấy, mẹ nàng mới chỉ là một cô bé mười tuổi nhưng rất xinh đẹp. Cô bé trở thành chiến lợi phẩm của một ông Đội khố đỏ, khét tiếng cờ bạc. Đêm trước trận đánh vào khu căn cứ Bố Hạ, đối thủ của Cai Sâm bị thua cháy túi, phải gán đứa con gái chiến lợi phẩm cho Cai Sâm. Hôm sau, ông Đội khốn khổ ấy chết trận. Cai Sâm đem cô gái gửi một người bà con ở vùng Đáp Cầu nhờ nuôi, với ý định đợi lớn một chút sẽ dùng làm thê thiếp. Và Cai Sâm không phải đợi lâu. Vài năm sau, khi Cai Sâm giải ngũ, cũng là lúc trái cấm vừa chớm thì. Ông kịp nếm mùi của lạ. Nàng có thai. Đợi tiếp một năm, đủ thời gian mẹ tròn con vuông, Cai Sâm giữ lại đứa con gái xinh xẻo, gửi người nuôi tiếp, còn người mẹ trẻ đem bán cho một quan lang ở Mường Bi, lấy mười đồng bạc hoa xoè.
COCKOO
13-05-2009, 11:05 AM
Trong cuộc đời binh nghiệp, Cai Sâm có hàng tá vợ, hàng đống con rơi, nhưng chỉ có Bướm, đứa con với người con gái xinh đẹp mang máu huyết anh hùng của nghĩa quân Hoàng Hoa Thám, được Cai Sâm mang về. Ông nói dối người vợ sư tử Hà Đông rằng Bướm là con gái yêu của người bạn cùng quân ngũ đã từng lấy thân mình cứu sống ông trong trận bọn quan binh Pháp lùa những người lính khố đỏ vào thiên la địa võng của núi rừng Yên Thế.
Càng lớn, Bướm càng đẹp lồ lộ. Mười lăm tuổi, nàng đã phổng phao hơ hớ như cô gái mười tám. Nhiều chàng trai chỉ ước ao được lọt vào mắt nàng. Vợ chồng Cai Sâm bỗng lên giá. Hệt như chuyện vua Hùng ngày xưa. Vừa có ý định kén rể, các Sơn Tinh, Thuỷ Tinh đã lục tục kéo đến. Có những ông Phán, bà Hàn, bà Đốc quen biết Cai Sâm từ đời tám hoánh, nay bỗng đánh tiếng muốn làm thông gia. Thế rồi chàng Sơn Tinh đã xuất hiện. Người ấy là Trương Phiên, con trai út của ông Bếp Tảo, bạn cùng quân ngũ với Cai Sâm. Bếp Tảo đi lính khố đỏ, biên chế chủ yếu ở đơn vị hậu cần. Do có tài nấu nướng, lại là chỗ họ hàng với quan Tổng đốc Hoàng Trọng Phu, nên thường được mời làm đầu bếp trong các buổi đại tiệc các quan Nam triều tiếp các quan nước mẹ Đại Pháp. Có một câu chuyện đàm tiếu về Bếp Tảo thời kỳ ấy. Ấy là thời gian ông lấy bà Tư Nguyệt. Thị Nguyệt vốn là một me Tây nổi tiếng ở vùng Đáp Cầu. Trước khi biết Bếp Tảo, Thị Nguyệt đã là nhân tình của viên quan ba Pháp Fournier. Khi Thị Nguyệt có mang một tháng thì viên quan ba Fourmer phải điều chuyển đi chiến trường Angiêri. Biết vậy nhưng vì cần xâm nhập vào giới thượng lưu Pháp, Bếp Tảo sẵn sàng chấp nhận việc quan ba Fournier đúc cốt để mình tráng men. Rất mừng là Trương Phiên sinh ra không mang trong mình dòng máu oẳn tà oằn Phi châu mà là sắc trời xanh trong mắt, mầu đặc trưng của vùng Địa Trung Hãi, miền Nam nước Pháp. Mặc miệng lưỡi thế gian, theo câu cách ngôn phương Tây: "Chó cứ sủa, đoàn người cứ tiến", ông Bếp Tảo và bà Tư Nguyệt cùng với cậu con trai Trương Phiên vẫn đạp trên dư luận, thẳng tiến vào giới thượng lưu.
Mười chín tuổi, Trương Phiên theo nghiệp cha tráng men vào học trường võ bị Sơn Tây. Ra trường với một bông mai vàng trên ve áo, gặp Bướm lần đầu tiên, chàng Tây lai đẹp ngời ngợi, cao một mét bẩy mươi nhăm, mẫu người lý tưởng cho các võ quan tương lai, như người bị bắt mất hồn. Đáp lại, Bướm cũng như một con thiêu thân, lao hết mình về phía ngọn đèn. Suốt tháng giêng hai, họ quấn lấy nhau, đưa nhau từ hội chùa Hương đến hội chùa Thầy. "Gái chưa chồng đến hang Cắc Cớ. lai chưa vợ đến hội chùa Thầy". Hang Cắc Cớ, là cái hang định mệnh của Bướm. Ở đó, nàng đã trao thân cho Trương Phiên.
Khi Bướm có mang đến tháng thứ hai thì chàng Trương Phiên bỗng lặn một hơi vô tăm tích. Lý do là ông Bếp Táo được Chính phủ bảo hộ tặng Bắc Đẩu bội tinh, được Chính phủ Nam Triều tặng hàm thất phẩm và được điều chuyển về Hà Nội. Lọt vào Hà Thành hoa lệ, Trương Phiên bỗng bị vây bủa, bị choáng ngợp bởi thế giới thượng lưu với hàng trăm tiểu thư khuê các. Ba tháng sau, chàng sĩ quan tương lai của Chính phủ bảo hộ làm lễ đính hôn với nàng Kiều Nhi, con gái quan Tham tá Bùi Tử Do, một yếu nhân của Hội đồng Dân biểu Bắc Kỳ.
Cái Sâm như người bị ỉa vào mặt, mấy lần mang cây súng kíp chĩa vào giữa ngực Bướm định bóp cò. Rồi ông gầm lên như con cọp bị trúng thương, vứt khẩu súng như vứt một que củi vớ chai rượu ngang tu ừng ực. Bướm muốn phát điên. Nàng trốn cha, bỏ nhà đi lang thang vào trong tít vùng núi Kim Bôi, Hoà Bình.
Cái thai, như một nghiệp chướng, suốt chín tháng trời quăng quật, thậm chí bị đày ải, bị nguyền rủa, bị hành hạ, cuối cùng mới chịu chui ra và bị Bướm vứt ở bụi tầm xuân gò ông Đống làng Động. Vứt con đi rồi, nàng mới thấy hành động của mình là điên rồ, là mất nhân tính. Chiều tối, với lòng hối hận tột cùng và sự dày vò của lương tâm, nàng trở lại tìm con, nhưng thằng bé đã bặt vô âm tín. Hoảng loạn, điên khùng, nàng băng qua cánh đồng, lao ra bờ sông và nhảy ùm xuống dòng nước buốt giá.
Hệt như trong truyện cổ tích. Đêm trăng suông giá rét ấy, vợ chồng người kéo vó bè trên sông đã cứu sống Bướm. Biết được cảnh ngộ éo le của nàng, họ đến gặp sư cụ chùa Phổ Hướng, một ngôi chùa cổ trơ trọi giữa đồng, xin cho nàng ăn mày cửa Phật.
Mười bẩy tuổi, Bướm xuống tóc, lấy pháp danh Thích Đàm Hiên.
Những năm 1939-1940, phong trào Dân chủ và Mặt trận Bình dân tan rã, Pháp trở lại đàn áp phong trào cách mạng ở thuộc địa. Chùa Phổ Hướng, nằm ở ven sông, xa làng, bốn bề bao bọc bởi luỹ tre ken dày song mây và um tùm bóng cổ thụ, trở thành cơ sở bí mật, nơi nuôi giấu các chiến sĩ cách mạng.
Ni sư Thích Đàm Hiên bản tính hiếu động, quyết liệt, tràn trề đam mê, khám phá, dù không tự giác, mặc nhiên dần thành cầu nối, giao liên giữa những người cộng sản.
Và rồi, sự nghiệt ngã của định mệnh một lần nữa lại kéo ni sư Thích Đàm Hiên trở về với cõi tục. Nàng yêu Lê Thuyết, uỷ viên Liên khu uỷ Hữu ngạn, một chiến sĩ cách mạng trung kiên. Nàng tình nguyện gia nhập tổ chức cộng sản của Lê
Thuyết và theo anh rời chùa Phổ Hướng đi hoạt động ở các xóm thợ, vùng quê.
Từ đây, với mật danh Đào Thị Cam, ai sư Thích Đàm Hiên, tức cô Bướm ngày xưa, thực sự trở thành người của Việt Minh, hoạt động trong một đường dây bí mật khắp các tỉnh châu thổ sông Hồng.
***
Từ ngày thằng Cục gặp người đàn bà tên Cam, tính tình nó bỗng nhiên đổi khác. Chiếc vòng bạc nó vứt trả, đã được người đàn bà giắt ở chạc ba cây sung. Ngay sau đó Cục đã quay lại và tìm thấy. Nó cất thật kỹ chiếc vòng bạc có vuốt hổ trong một túi vải, lâu lâu lại mở ra ngắm nghía, như ngắm một thứ bùa hộ mệnh. Nó trầm lặng, ít nói và hay tách rời thằng Vện, tha thẩn đi chơi một mình.
Cục thường xem lại cái bớt màu lông chuột ở dưới rốn nhiều lần và cứ vơ vẩn nghĩ về những điều mà người đàn bà lạ đã nói với nó. Rồi không thể đừng được, Cục mang mối hoài nghi này hỏi bà nội. Bà Đồ Kha vốn không biết nói dối bao giờ. Bà ngạc nhiên về cái vòng bạc và người đàn bà đã tặng thằng Cục vật quí. Bà thú nhận rằng thằng Cục đúng là được sinh ra từ bụi tầm xuân gò ông Đống.
- Nhưng ai đẻ ra cháu hở bà? Vẫn là mẹ Phúc đấy chứ?
- Thì mẹ Phúc chứ còn ai nữa? Cháu với anh Vện vẫn là anh em sinh đôi mà… Mà này, đừng nghe ai xui nữa nhé. Gặp người đàn bà ấy thì hãy tránh xa ra cháu nhé… - Bà Đồ Kha giải thích qua loa rồi vội đánh trống lảng sang chuyện khác.
Ý nghĩ về nơi sinh của mình luôn trở đi trở lại trong giấc ngủ của thằng Cục. Nó mơ tưởng đến gò ông Đống như con chiên mơ về vùng đất thánh. Và rồi, như câu chuyện Thạch Sanh bà Đồ Kha thường kể cho các cháu nghe, Cục cũng có khát vọng như chàng Thạch Sanh muốn trở lại gốc đa xưa nơi đã sinh ra mình. Nó lầm lùi ra bờ ao đẵn một cây trúc bánh tẻ thật già, chọn một đoạn thật thẳng, dài hai sải tay, lừa lúc giữa trưa, thằng Vện và cả nhà thiu thiu ngủ, một mình nó ra gò ông Đống. Khóm tầm xuân trên gò giờ đã trở thành một búi to rậm rạp. Bọn trẻ chăn trâu thường bảo nhau tránh xa bụi tầm xuân này vì sợ trong đó có ma quỉ. Nhưng thằng Cục cóc sợ Nó cần phải biết nơi đẻ ra nó như thế nào. Với dũng khí của chàng Thạch Sanh, nó lom khom bò lên gò ông Đống, tiến đến sát bụi tầm xuân. Chà chà, những đoá tầm xuân cánh trắng, nhị vàng giống như loài hoa hồng trắng thơm điếc mũi. Mẹ nó thật khéo chọn, nơi sinh hạ nó thật là độc đáo. Những cây tầm xuân vươn dài ra, uốn cong, tạo thành một vòm, kín, như vòm cung điện.
Cục đảo quanh bụi tầm xuân một vòng. Tự nhiên nó nảy sinh một nỗi ham muốn bồng bột rất trẻ con là được chui vào nằm giữa bụi tầm xuân, giữa vòm cây ken dày lá xanh và hoa trắng thơm ngát, giữa trưa nắng mà vẫn râm mát như một cung điện, nơi mười năm trước nó đã được sinh ra, xem cảm giác êm khoái đến mức nào. Bằng một động tác rất thận trọng, nó ép người xuống cỏ, đưa chiếc gậy trúc vào giữa bụi, gạt mấy cành gai và từ từ trườn vào.
Cục nhắm mắt lại. Hai cánh mũi nó mở thật to, hít thật sâu mùi hương thanh khiết, nồng nàn của hoa tầm xuân. Nó tưởng tượng mình đang ở trong một cung điện nguy nga đầy hương thơm và tràn ngập những hào quang. Hình như đâu đây có tiếng xiêm áo sột soạt. Hình như những nàng tiên với những tà áo dài tha thướt như suông khói đang từ trong cung điện tiến ra chào đón nó.
Bỗng, búp. Một tiếng kêu rất nhẹ. Bàn tay trái thằng Cục buốt nhói. Một con rắn hổ trâu đen trũi loáng qua mắt Cục.
Toi rồi. Nó vừa bị rắn mổ. Phản xạ đầu tiên của thằng Cục là toại người ra khỏi bụi tầm xuân, lăn một vòng xuống chân gò.
Chỉ nửa tiếng nửa, nó sẽ chết. Y nghĩ ấy khiến Cục rùng mình, toát hết mồ hôi. Nó dùng bàn tay phải nắm chắc cổ tay trái để nọc không chạy lên tim. Thấy. không an toàn nó cởi dây rút quần quấn quanh cánh tay mây vòng thật chặt.
Khi thằng Cục chạy về đến cổng nhà, cũng là lúc nó ngất xỉu, mắt trợn ngược không biết gì. Ông Cử Phúc lao thẳng từ trong nhà ra, ôm lấy thằng con.
Bằng linh tính nghề nghiệp, ông biết phải làm gì. Chỉ chậm vài phút nữa, thằng bé sẽ chết. Cánh tay trái thằng Cục sưng vù, tím đen. Ông Cử Phúc chích tĩnh mạch nặn máu nhiễm độc và bằng thứ thuốc đặc hiệu gia truyền, ông cho Cục uống để tiêu nọc, trợ tim.
Thằng Cục được cứu sống, nhưng từ đó, tai nó bị nghễnh ngãng, tay trái bị teo cơ, suốt đời mềm oặt như dải khoai nước.
Cũng từ đó, không bao giờ Cục đặt chân đến gò ông Đống. Nó cố quên cái nơi nó sinh ra, cố quên người đàn bà đã xui nó tìm ra gò ông Đống để khiến nó tật nguyền suốt đời.
COCKOO
13-05-2009, 01:10 PM
Chương 3
Cuộc tình éo le
Trong số những cán bộ nòng cốt được tổ chức đưa về lãnh đạo cuộc khởi nghĩa cướp chính quyền tháng 8 năm 1945 ở huyện Phương Đình có Đào Thị Cam.
Năm ấy Cam hai mươi bốn tuổi, đẹp đến mức hằng ngày nàng phải trộn bồ hóng với tro bếp thoa lên mặt để người ta đỡ nhìn. Sự xuất hiện của nàng trong cuộc diễn thuyết dưới gốc cây muỗm cổ thụ trước cổng chùa Phổ Hướng, là một sự kiện xưa nay chưa từng có. Tóc búi để lộ chiếc cổ cao ba ngấn, áo nâu non chẽn ngang bởi chiếc thắt lưng to bản, lại cài hai trái lựu đạn mỏ vịt, càng tôn thêm bộ ngực căng tròn và đôi hông nở đầy khêu gợi… Cánh đàn ông nhìn không chớp mắt. Nhiều ông cứ há hốc mồm như muốn nuốt chửng lấy nàng, không cần biết nàng nói những gì.
Khi hàng vạn người từ các thôn, các xã trong vùng đã tập hợp đông chật bãi cỏ trước chùa, tiếng hô xé trời, cờ, biểu ngũ, giáo mác, đòn càn, gậy gộc… đâm lên tua tủa, cũng là lúc lệnh khởi nghĩa được phát ra. Cam cùng ba người đàn ông trong ban lãnh đạo dẫn đầu cuộc biểu tình, dương cao lá cờ đỏ sao vàng, cờ búa liềm tiến về huyện đường Phương Đình. Hình ảnh ấy, tư thế ấy của Cam không kém gì hình ảnh Bà Trưng kéo quân về thành Mê Linh hỏi tội Thái thú Tô Định. Người ta trầm trồ về vẻ đẹp lộng lẫy, tư thế oai phong lâm liệt của nàng. Người ta càng kinh ngạc hơn khi nhận ra nàng chính là ni sư Thích Đàm Hiên của chùa Phổ Hướng mấy năm trước.
Người bị Cam làm cho choáng ngợp, làm hút hồn ngay từ lần đầu gặp mặt là cậu học trò Nguyễn Kỳ Khôi. Hoá ra nhà lãnh đạo cách mạng của huyện lại là thầy tiểu xinh đẹp của chùa Phổ Hướng mấy năm trước đã từng làm Khôi chết mê chết mệt.
Ấy là những năm Khôi học lớp Đệ ngũ, Đệ tứ ở trường tiều học Tảo Khê. Từ nhà đến trường đi bộ chừng bẩy cây số, qua mấy cánh đồng, qua chùa Phổ Hướng và một dẫy ao chuôm trước khi ra tới bờ sông. Nghe đồn chùa Phổ Hướng mới có một thầy tiểu đẹp ngang tiên nữ giáng thế, mấy đứa học trò tinh nghịch bọn Khôi liền phân công nhau thám thính. Chúng trèo cây, vượt qua nhà tam bảo lẻn vào chùa để nhìn tận mặt.
Quả nhiên danh bất hư truyền. Lúc ấy thầy tiểu đang vớt bèo dưới ao, chỉ nhìn thấy dáng người phía sau, một eo lưng thon mềm, mông nở căng sau bộ nâu sồng, và đặc biệt khêu gợi là hai bắp chân trắng ngần thon lẳn. Khôi giả vờ bẻ một cành khô đánh động. Thầy tiểu giật mình quay lại. Trời ơi, tiên nữ thế kia mà nỡ trốn vào chùa, có phí hoài không?
Lần gặp tiểu ấy khiến Khôi ngơ ngẩn hàng tháng trời. Khôi tương tư. Khôi phải lòng tiểu Hiên và lúc nào cũng chỉ nghĩ đến chùa. Cậu đang ở tuổi phát dục nên thường tưởng tượng đến thân thể đàn bà. Khôi như nhà thám hiểm khao khát phát hiện những vùng đất mới. Rất nhiều buổi trưa cậu hay lang thang ở bờ ao nhà ông xã Duyên để rình nhìn trộm đàn bà tắm. Ao ông xã Duyên là chiếc ao rộng, sâu nhất làng, nước trong đến mức nhìn rõ cả từng búi rong đuôi chó, từng đàn cá chuối dẫn nhau đi ăn mồi. Chiếc cầu ao ở gốc sung hầu như dành riêng cho đàn bà con gái xóm Thượng tắm. Đứng rình phía bên kia cầu ao, sau bụi tre, dưới gốc cây gạo, giả vờ đang câu ếch hoặc bắt cua mà nhìn trộm đàn bà tắm thì thật là tuyệt. Tha hồ mà xem như sau này người ta xem phim sex.
Béo, gầy, trắng, đen, vú to, vú nhỏ, mông lép, mông mẩy… phô bầy ra hết. Thú nhất là đoạn các bà các cô thay quần. Có người kín đáo quấn quanh người chiếc khăn vuông đen hoặc chụp qua đầu chiếc váy, rồi tụt quần ra. Có người nhìn quanh không thấy ai, liền cởi bỏ hết cả, trắng nồng nỗng, đen nhưng nhức. Những lúc ấy, Khôi chỉ biết nuốt nước bọt, mắt mở căng. Ước gì có cái ống nhòm mà nhìn cho bõ.
Uớc muốn được nhìn tiểu Thích Đàm Hiên tắm bắt đầu nảy sinh từ cái hôm Khôi nhìn thấy bắp chân trần của tiểu lúc vớt bèo dưới ao. Không để cho một đứa bạn nào biết, Khôi ngấm ngầm thực hiện một kế hoạch. Cậu bỏ hẳn một buổi chiều đi thám thính quanh chùa và phát hiện một nơi đột nhập vào chùa rất lý tưởng. Chỉ cần đu lên cành nhãn bên cổng ngách là có thể chuyền sang cây muỗm gần ao. Từ đây dễ dàng trườn sang nóc nhà tam quan, lên gác chuông, rồi leo vào gian trái nhà ngang hay bất cứ nơi nào trong chùa. Tìm thấy đường, ắt đi tới đích. Suốt kỳ nghỉ hè năm ấy, Khôi ta nói dối thầy u đi học thêm, mang mấy cuốn sách giáo khoa thư, lẻn tót lên gác chuông chùa Phổ Hướng giả vờ ôn bài, nhưng kỳ thực là chờ cơ hội rình xem tiểu Hiên tắm.
Kỳ công đến cả tuần lễ mà vẫn không ăn thua gì. Vẫn chỉ một chiếc khăn nâu quấn kín quanh đầu, vẫn một dáng nâu sồng bí ẩn.
Cho đến một buổi, Khôi bỗng nhận ra tiểu Hiên trong một dáng vẻ rất khác lạ. Nàng có vẻ thẫn thờ, có vẻ bồn chồn trông ngóng một ai đó. Đang cuốc đất hùng hục ở ngoài vườn, nàng bỗng vứt cuốc, chạy đến cầu ao vã nước lên mặt, xắn cao quần khoả nước lên đùi, rồi lại xăm xăm ra vườn, vớ lấy cuốc, bổ phầm phập. Được một lúc, nàng dừng cuốc, đứng thừ người. Có chuyện gì đang đến với tiểu Hiên? Nàng đang mòng ngóng ai chăng? Khôi chợt thắt lòng như muốn ghen với ai đó.
Hướng theo ánh mắt bồn chồn của tiểu Hiên, Khôi nhận ra một vạt ngô đang kỳ xây bắp. Những cây ngô xanh mướt, cây nào cũng mang một hai bắp trên mình. Đột ngột, tiểu Hiên buông cuốc, đi xăm xăm đến vạt ngô, tìm bẻ một bắp to nhất giấu vào vạt áo. Thì ra nàng đói. Khôi như hiểu ra. Cậu cố thử đoán xem nàng sẽ ăn ngô như thế nào?
Nhưng sao chỉ có một bắp? Sao nàng không vào bếp để nướng hoặc luộc mà lại xăm xăm đi vào nhà kho thế kia? Khôi lại căng óc theo dõi và phán đoán. Chờ mãi, không thấy tiểu Hiên ra, Khôi càng nóng ruột. Cậu luồn từ gác chuông, qua chái tam quan, qua cây bưởi đầy gai đến nóc nhà kho. Có tiếng thở dốc, rồi tiếng rên quằn quại. Thôi chết, tiểu Hiên làm sao? Khôi áp tai vào mái ngói. Tiếng thở, tiếng rên càng rõ hơn. Chắc là Hiên bị trúng gió hoặc bị ngộ độc thức ăn? Lao xuống đất, phá cửa nhà kho vào cứu tiểu Hiên chăng? Không được! Sẽ bị lộ. Sư thầy sẽ chạy đến, hô hoán lên, hoá ra lạy ông tôi ở bụi này!
Rất may, Khôi nhìn thấy mấy viên ngói vỡ gần nóc. Trườn tới dỡ viên ngói nhòm xuống. Khôi bỗng bàng hoang phát hiện ra một cảnh lạ lùng; Tiểu Hiên đang nửa nằm nửa ngồi trên nắp chiếc vại đựng khoai khô, trong một tư thế gần như khoả thân, khăn áo nâu sồng vứt dưới chân, mái tóc đang mọc lởm chởm bết mồ hôi, ôm lấy gương mặt đỏ bừng vừa như đang rất đau đớn, vừa như đang ở đỉnh điểm thoả mãn, khoái cảm. Kỳ lạ nhất là đôi bàn tay. Một tay nàng xoa bóp bầu vú, như mơn trớn, như vày vò, tay kia đang cầm một vật gì đó kẹp chặt giữa đùi. Càng kẹp, nàng càng quằn quại, rên rỉ. Cố kìm nén mà tiếng kêu của nàng cứ hộc lên…
Dí mắt xuống sát khe ngói một chút nữa, Khôi nhìn thấy mấy bẹ bắp ngô non vừa bị lột, rơi dưới đất như những cánh hoa…
Chiều hôm ấy, Khôi không biết bằng cách nào mình đã về được đến nhà, bằng cách nào Khôi đã rời khỏi mái nhà kho chùa Phổ Hướng mà tiểu Hiên không biết. Đũng quần cậu đẫm ướt. Cậu cảm thấy mình đã trở thành đàn ông. Khôi đã khám phá ra chốn sâu kín nhất của người đàn bà đầy khát khao ham muốn nhưng phải giam hãm tù túng chốn cửa thiền.
Ba tháng sau, tiểu Hiên bỗng biệt tung tích. Không ai biết nàng đi đâu. Sư cụ trụ trì chùa Phổ Hướng thì bảo: "Căn quả của người ấy nặng lắm, Đức Phật cũng không độ được".
COCKOO
13-05-2009, 01:11 PM
Cuộc hội ngộ giữa Tháng Tám - Mùa Thu khiến Khôi hạnh phúc đến tột cùng. Nàng đã trở về sau hơn ba năm mai danh ẩn tích. Cuộc trở về chùa Phổ Hướng của nàng lần này trong một tư thế thượng phong thác hẳn. Cách mạng phải hoành tráng và cuốn hút như thế chứ. Sẽ khối kẻ choáng váng vì nghĩ rằng cách mạng chỉ toàn người lao khổ khố rách áo ôm. Thì kia, hãy mở to mắt nhìn. Cách mạng có một nữ thủ lĩnh đẹp đến mê hồn.
Sẵn khí thế hừng hực của hàng vạn người lao khổ vùng lên, giờ lại được truyền thêm chất men say và vẻ đẹp đầy quyến rũ, đầy lãng mạn của mỹ nữ cách mạng, Khôi như người nhập đồng, bừng bừng và cuồng nhiệt, háo hức và đam mê, xả thân và liều lĩnh. Ở đâu có Cam là có Khôi. Khôi đi phá kho thóc của Nhật chia cho dân nghèo. Khôi tiến vào huyện đường tước ấn tín của quan huyện, đốt hết sách vở, giấy tờ liên quan đến phong kiến đế quốc.
- Đồng chí Khôi là con ông Cử Phúc, đúng không? Đồng chí giỏi lắm.
Chỉ một ánh mắt, một câu nói của Cam đủ làm Khôi run lên. Sao nàng biết tên ta? Nàng biết rất rõ về gia đình ta nữa?
Khôi cầm bàn tay nhỏ nhắn của nàng đưa cho mà cảm giác như máu của nàng truyền bang người mình, giârl giật, nóng bỏng, cảm thấy tim mình có lúc như ngừng đập.
Sau này, chính Khôi cũng không lý giải nổi rằng, ngay sau cuộc cách mạng long trời lở đất ấy, anh đã bỏ học, trốn ông bà Cử Phúc, thoát ly gia đình đi làm cách mạng, là vì ý thức giai cấp lòng căm thù đế quốc sài lang hay vì ánh mắt, nụ cười và vẻ đẹp đầy quyến rũ, mê hoặc của Cam?
Suốt những năm tiếp theo, hình ảnh của Cam lúc nào cũng ngự trị trong trái tim chàng trai đang tuổi trưởng thành. Và có điều này thật kỳ lạ: Hằng tháng, thậm chí hằng tuần, anh vẫn gặp nàng trong mơ. Những giấc mơ thường gắn với hình ảnh nàng gần như khoả thân lên rỉ và quằn quại trong gian nhà kho chùa Phổ Hướng ngày nào. Lần nào mơ thấy nàng, đũng quần Khôi cũng đẫm ướt. Nàng như mục tiêu khoái cảm, như chất đôping của đời anh.
Không hiểu bằng cách nào đó, trong tay Khôi có một tấm ảnh của Cam. Khôi hôn hít ngắm nghía hàng nghìn lần. Khôi sáng tác hẳn một bài thơ chép sau tấm ảnh, cất nó trong một túi vải, lúc nào cũng đeo trước ngực.
Choáng ngợp hồn ta sắc đỏ cờ
Môi nàng cũng sắc lửa Mùa Thu
Đường cách mạng dù chông gai bão tố
Ta xiết tay nhau quyết thắng thù!
Đó là bài thơ tình và cũng là bài thơ cách mạng đầu tiên của Khôi. Nhất định đến một lúc nào đó, anh sẽ đọc tặng nàng.
Thế rồi cái ngày định mệnh ấy đã đến.
Theo sự bố trí của tổ chức, Khôi từ vùng căn cứ Cầu Dậm sang nhận chỉ thị chuyến công tác mới. Địa điểm cho cuộc gặp là nhà một cơ sở ở Chợ Đanh, nơi giáp ranh giữa vùng tự do và vùng tề. Đây là địa chỉ hòm thư lưu mà lâu nay Khôi đã từng lui tới. Chỉ một động tĩnh nhỏ, có dấu hiệu khả nghi, thuyền của ta sẽ đưa Khôi vượt sông sang vùng an toàn.
Thượng cấp mà Khôi gặp, không ngờ lại là Cam. Tấm khăn vuông đen che kín mặt, chỉ để hở đôi mắt. Vậy mà thoáng nhìn, Khôi đã run lên. Suốt ba năm xa cách, nhưng hầu như không lúc nào anh không nghĩ đến nàng, không dò la tin tức về nàng. Khôi biết, người có mãnh lực kéo Cam ra khỏi chùa Phổ Hướng ngày ấy là Lê Thuyết, uỷ viên Liên khu uỷ Hữu Ngạn, người đã dẫn dắt nhiều trí thức tham gia phong trào vô sản hoá. Cuộc tình ấy khiến Khôi ghen tị, nhưng anh bất khả kháng. Cho đến khi tin Lê Thuyết bị Quốc dân Đảng giết ở Hải Phòng thì trong Khôi thầm nhen lên một hy vọng mơ hồ. Khôi ái ngại khi Cam trở thành goá bụa, nhưng anh cũng thầm chờ đợi một cơ hội…
Ánh nhìn của Khôi báo hiệu cho Cam biết anh đã vào độ trưởng thành. Mười tám tuổi, mặt đầy trứng cá. Cao to, vồng ngực căng nở, cánh tay vạm vỡ. Trông ra dáng đàn ông lắm rồi. Khôi để một hàng ria mép đen ánh vừa như một chú ngựa non mới lớn, lại giống một gã dê choai.
Trong khi họ đang thì thầm trao đổi công việc ở trên nhà, thì có ánh đèn pin loang loáng và tiếng giày đinh của bọn lính nguỵ ở bờ sông. Không theo con đường đê mọi ngày, bọn lính ở bốt Chợ Đanh đi từ dưới sông lên. Chúng có cả một ca nô có gắn đèn pha cực mạnh đang túc trực bên bờ. Vậy là đường rút qua sông đã bị chặn. Ông già chủ nhà là một người giàu kinh nghiệm và rất bản lĩnh. Ông thong thả rít hết một mồi thuốc, vầng trán cau lại nghĩ ngợi mưu kế, rồi ông ném mảnh chăn nâu lên chiếc phản, nơi đứa cháu đang ngủ, bên gian trái nhà, bảo Cam và Khôi phải đóng vai hai vợ chồng ôm nhau nằm ngủ, ông sẽ tìm cách xoay xoả với bọn lính.
Quả nhiên, sau khi ông già bê vò rượu thơm phức mời mỗi đứa một bát, rồi chỉ vào trong nhà nói có hỏi vợ chồng đứa cháu ngoài Đồng Vàng vào buôn cau, mệt nằm ngủ, bọn lính tin ngay. Chúng xoáy nải chuối và rổ ngô luộc rồi bỏ đi.
Những phút giây cập kề giữa cái sống và cái chết ấy vẫn chen lấn những tích tắc thần tiên. Khôi đang nằm bên người đàn bà mà anh yêu đến mê muội. Anh cảm thấy hơi thở của nàng nóng rực, thân thể nàng với những đường cong tuyệt mỹ như bao bọc lấy anh, bộ ngực nàng dường như không thể ngăn được tiếng con tim đập, cứ hoảng loạn, phập phồng. Lạ quá, bất chấp cả tiếng súng va chạm, tiếng cười hô hố của bọn lính tuần, những hình ảnh của tiểu Hiên trong gian nhà kho năm ấy bỗng thoáng hiện về. Người Khôi như quả bom chờ nổ.
Cho tới lúc bọn lính đã đi xuống bờ sông, và ông già còn đang lo việc tống tiễn chúng, Khôi thấy vòng tay của người đàn bà bỗng ôm xiết lấy anh. Như một phản xạ, Khôi quay mặt lại. Kỳ diệu quá, đôi môi ướt át và mềm ấm của người đàn bà bỗng gắn lấy môi anh. Ngây ngất. Nghẹt thở. Dường như rất lâu rồi, nàng bị kìm nén, bị phong toả. Cánh tay của nàng, đôi môi của nàng nói vậy. Khôi đang định xoay người ôm xiết lấy nàng, thì nàng ngồi vục dậy, chân khoả xuống nền nhà, bới lại tóc.
Vừa lúc ấy, ông già chủ nhà quay lại.
- Chúng mình rút thôi - Cam nói ráo hoảnh, như vừa nãy chẳng có chuyện gì xảy ra - Khi nào có thẻ căn cước của anh chúng ta sẽ gặp lại.
Lần đầu tiên nàng gọi Khôi bằng anh. Nàng hẹn sẽ gặp lại anh. Khôi sung sướng như muốn phát điên lên. Và thực sự anh đang run. Đến mức không thể cất lên lời. Anh dúi vội vào tay nàng mẩu giấy mà anh đã nắn nót chép sẵn bài thơ anh làm chỉ để tặng nàng. Như hiểu ý, nàng cất mảnh giấy vào lần áo lót trước ngực.
COCKOO
13-05-2009, 01:12 PM
Cuộc chờ đợi của cả hai người lâu như một thế kỷ. Đó là khoảng thời gian mà Cam ba lần giả trang để đến vận động ông Cử Phúc và các bạn bè ông gia nhập lực lượng Việt Minh và cũng là dịp để Cam tìm gặp lại thằng Cục, đứa con mà nàng đã vứt bỏ.
Cái tối giả vợ chồng và nụ hôn cháy bỏng ở chợ Đanh ấy khiến cả hai đều nhớ về nhau đến quay quắt. Chỉ bốn câu thơ, Khôi đã gửi trọn thông điệp tình yêu với Cam. Đây là lần đầu tiên trong đời có người làm thơ tặng Cam. Khôi khác hẳn với Trương Phiên và Lê Thuyết. Trương Phiên tung bùa mê thuốc lú để chiếm đoạt nàng. Lê Thuyết kéo nàng trở về với đời thường trong khi nàng còn ngơ ngác và mặc cảm tội lỗi. Khôi khác hẳn bọn họ. Anh trong trắng, không vụ lợi, không vẩn đục bởi những dục vọng và tính vị kỷ. Anh có niềm say mê thánh thiện và sự tôn thờ tuyệt đối, có khả năng gột rửa và trả lại cho nàng ve tinh khôi ngà ngọc, những khát vọng trinh nữ và thậm chí cả những cuồng say tăm tối mà đã bao lâu nàng phải kìm nén. Dường như cho đến bây giờ, ở tuổi hăm sáu, Cam mới thực sự được đánh thức những khát vọng, thế giới tâm hồn đầy khao khát yêu đương của nàng mới được hé mở. Rào cản ngăn cách chị em chỉ là một lớp màng giả tạo, khi sắp được dỡ bỏ, lại càng có sức kích hoạt, mời gọi, chờ đón. Cam như ngọn núi lửa chứa đầy mình dung nham nghìn độ. Sau cái chết của Lê Thuyết, Cam đã tự thề với lòng mình sẽ không yêu ai nữa. Nàng lao vào hoạt động cách mạng để trả thù cho chồng. Nàng tự rèn mình thành sắt đá, noi gương các liệt nữ, tiết hạnh khả phong. Nhưng rồi, chính Khôi đã phá vỡ lớp vỏ bọc sắt đá ấy. Anh đã điểm huyệt đúng miệng núi lửa. Và dung nham tuôn trào không gì cưỡng được. Lần đầu tiên kể từ ngày gia nhập tổ chức, Khôi đã tự phá luật lệ, từ khu an toàn, vượt sông vào vùng tề để tìm Cam.
- Anh liều lĩnh quá. Thượng cấp biết anh vô tổ chức thế này sẽ không để yên đâu - Nàng trách. Nhưng chính đôi mắt của nàng lại mách bảo rằng: Anh cừ khôi lắm, đáng mặt đàn ông lắm. Em nhớ anh đến quay quắt, biết không?
Trong vai một cặp vợ chồng từ Hà Nội đi tìm người tản cư, họ đã sống với nhau ba ngày thần tiên tại một nhà trọ sang trọng ở phố Phương Đình. Bằng kinh Nghiệm từng trải của một người đàn bà từng qua những cuộc chăn gối; với năng lượng tích tụ và sự ham muốn bị kìm giữ lâu ngày, nàng đã bày cách dẫn dụ anh chàng trai tơ Nguyễn Kỳ Khôi vào vòng tình ái một cách ngoạn mục và cuồng loạn. Đó là những ngày tuyệt đỉnh nhất của đời Khôi. Anh từ run rẩy, ngơ ngác, bàng hoàng đến mê đắm, cuồng si và bạo liệt.
Nạ dòng vớ được trai tơ
Đêm nằm hí hùng như mơ được vàng.
Những ngày gặp Khôi, Cam có cả một kho vàng. Mà nàng đâu phải nạ dòng. Cho đến bây giờ vào tuổi hai mươi sáu nàng mới thực sự đàn bà. Mười năm qua, kể từ tuổi mười sáu trao thân cho Trương Phiên, rồi mấy năm bôn ba làm vợ Lê Thuyết, nhưng đến bây giờ mới là đỉnh điểm của ái tình. Nếu như với người đàn ông, sự phá trinh một thiếu nữ chính là lễ hiến tế thiêng liêng của tình ái, thì với người đàn bà, được tận hưởng nguyên khí của người con trai cũng là tuyệt đỉnh của khoái cảm, thăng hoa của hạnh phúc.
Sang ngày thứ hai, khi đã "càng quen thuộc nết, càng dan díu tình", Khôi mới kể cho Cam về câu chuyện cậu học trò đa tình ngày nào đã nằm phục trên mái ngói nhà kho chùa Phổ Hướng để nhìn trộm tiểu Hiên thủ dâm ra sao. Chưa nghe hết câu chuyện, Cam đã túm lấy Khôi đấm thùm thụp.
- Anh hư lắm. Đi dòm người ta. Thế mà lúc ấy em chẳng biết gì.
- Mình còn mải rên và quằn quại. Mà này, bắp ngô hay nhỉ…
- Ư ừ… Chỉ nói xấu người ta. Tưởng đi tu được mà dễ đấy à? Em ở chùa được bẩy tháng là giỏi lắm rồi… Thôi, ứ nói chuyện ấy nữa. Nói chuyện khác đi.
- Chuyện gì?
- Chuyện cái bắp ngô này này…
Cam khúc khích cười, luồn tay xuống dưới bụng Khôi.
Lần này thì nàng cẩn trọng và nhẹ nhàng. Bàn tay ấm mềm của nàng mơn man, dịu dàng như nâng niu báu vật. Vừa dẫn dụ vừa mê hoặc, nàng phả vào Khôi sự mê đắm cuồng nhiệt, dẫn dắt Khôi vào một vũ điệu mới.
Hiếm hoi lắm mới có một khoảng lặng họ dành cho công việc:
- Gặp thầy tôi, mình có thấy ông cụ là một người tuyệt vời không? - Khôi hỏi sau một giấc ngủ mê mệt.
- Không thích tôi mình đâu - Cam làm mặt giận - Anh chê em già hơn anh nhiều phải không? Những tám tuổi cơ mà…
- Thì thôi vậy…
- Anh quen mồm… Thôi nào, nói tiếp đi. Thầy anh thế nào?
- Ông cụ là một nhà nho trọng nghĩa khinh tài, nhưng lại quá lo cho gánh nặng gia đình. Vận động được ông cụ đồng ý tham gia với Việt Minh là một thắng lợi rất lớn.
- Nhưng anh cứ lo… Nhỡ có vị du kích Việt Minh nào không hiểu được việc thầy anh làm, họ khử ông cụ…
- Ừ nhỉ. Một công việc tưởng như đơn giản nhưng lại cực kỳ nguy hiểm. Nhiệm vụ hai mang, chỉ người trong tổ chức mới biết được. Địch biết, nó cũng khử…
- Đồn trưởng Trương Phiên là một tên ác ôn khét tiếng. Nó đánh tổ tôm với thầy anh là để khống chế và thăm dò ông cụ. Đi với ma dù có mặc áo giấy vẫn bị phát hiện như thường.
Nhắc đến Trương Phiên, Cam bỗng nhớ đến thằng Cục.
- Lạ nhỉ, thầy u anh đặt tên hai thằng bé đến buồn cười. Ai lại gọi là Vện và Cục.
- Gọi thế để người ta đỡ quở quang, cho dễ nuôi. Em thấy hai thằng bé có đáng yêu không?
- Ước gì em có một đứa con như thế - Cam bỗng nhớ thằng Cục đến thắt lòng. Nàng thở dài, quàng tay ôm lấy Khôi.
- Này, nhỡ chúng mình có con thì chết. Chúng mình chưa phải vợ chồng của nhau. Tổ chức sẽ kỷ luật… - Khôi nói và thử nhẩm tính. Chỉ trong ngày hôm nay họ đã làm tình với nhau tới bẩy lần.
- Anh sợ tổ chức lắm à? Chửa thì đẻ chứ sao. Em muốn có với anh một đứa con, một thằng cu sau này đẹp trai như thằng Cục…
- Không được đâu. Anh còn phải phấn đấu nữa chứ…
Khôi lắc đầu mặt nghe như một đứa trẻ. Cam ngắm anh, bỗng trỗi dậy niềm ham muốn mới. Nàng trườn xuống, nhẹ nhàng hôn từ gót chân Khôi. Đôi môi người đàn bà chạm tới đâu người Khôi lại gai lên, cương nở. Nàng dừng lại ở giữa hai đùi Khôi rất lâu, khơi gợi ở anh một chu kỳ mới. Sau một giấc ngủ, Khôi lại tràn trề sinh lực. Anh lùa tay dưới hai bầu vú căng mọng của nàng, kéo nàng nhích dần lên, cho tới khi anh có cảm giác xuyên qua người nàng.
Cũng là khi họ bắt đầu cuộc tình ái thứ tám trong ngày…
COCKOO
13-05-2009, 01:13 PM
Sau ba ngày thần tiên, Nguyễn Kỳ Khôi mang tên trong thẻ căn cước là Nguyễn Khắc Khang, được tổ chức đánh vào nội thành Hà Nội với công tác đặc biệt: Vận động các trí thức, văn nghệ sĩ, các nhà tư sản dân tộc lên chiến khu Việt Bắc, phụng sự kháng chiến.
Đó là những ngày hoạt động sôi nổi, hứng thú nhưng cũng đầy nguy hiểm của Khôi. Anh cùng các đồng chí trong tổ chức vừa tìm cách khéo léo che mắt địch, vừa móc nối, tiếp cận với quần chúng giác ngộ giúp đỡ vận động các nhân sĩ trí thức, vùa tìm cách đấu trí, đấu cả tính mạng với bọn Việt quốc Việt cách phản động cũng đang lôi kéo những người yêu nước.
Khôi nhớ Cam với nỗi nhớ của kẻ nghiện thuốc phiện bị đứt bữa. Hai lần anh giấu tổ chức ra vùng tự do để tìm Cam, nhưng không gặp.
Công việc trên chiến khu đang cần Khôi. Hơn một năm sau, Khôi ngược Thái Nguyên, qua Đại Từ, vượt Đèo Khế sang vùng ATK Tuyên Quang.
Đúng như lá số tử vi ông Cử Phúc đã lập cho Khôi, vừa bước chân đến rừng, con ngựa kỳ như trở về nơi sinh, gặp đất đắc địa. Nhiều nhân sĩ trí thức do Khôi vận động từ Hà Nội lên đã nói tốt về anh với tổ chức, do vậy, vừa lên chiến khu, Khôi đã được thượng cấp đặc biệt tin cậy. Đích thân đồng chí Tư Vuông giao nhiệm vụ và kèm cặp Khôi. Đồng chí Tư Vuông là một thượng thượng cấp của Việt Minh. Được tiếp xúc và nhất là được là thuộc cấp trực tiếp của ông là một diễm phúc.
Sau sáu tháng thử thách với nhiều loại công việc khác nhau, nhiều tình huống, ứng xử khác nhau để bộc lộ năng lực và phẩm chất tuyệt đối trung thành, Khôi được phiên chế vào một đơn vị đặc biệt, với những nhiệm vụ đặc biệt. Và rồi, một đặc ân bất ngờ đã đến với Khôi: Anh được thượng cấp tin cậy yêu mến, đổi tên thành Chiến Thắng Lợi. Từ đây, cuộc đời Khôi lật sang một trang mới, giống như một anh chàng mãi võ được đeo đai thứ hạng đen, trắng, một cầu thủ chân đất được lên chân giày khoác áo sân cỏ, vượt lên một đẳng cấp mới.
Chiến Thắng Lợi hoàn toàn không hay biết cuộc tình sét đánh và éo le với Cam, đã đơm hoa kết quả. Có lẽ ở cái lần thứ tám thăng hoa ấy. Cam tin như vậy.
Khác với lần có thai với Trương Phiên trước đây, khi nàng mười sáu tuổi thơ ngây khờ dại, hoảng loạn vô phương hướng, lần này nàng nâng niu ấp ủ đứa con trong bụng như Đức Mẹ Đồng trinh mang thai Chúa Hài Đồng.
Thời kỳ chuẩn bị sinh nở, Cam về sống ở nhà cơ sở một cô hàng xén, cùng trang lứa, tên Nhạn.
Nhạn không xinh đẹp bằng Cam, nhưng hấp dẫn bời vẻ dung dị và nữ tính. Gánh hàng xén của Nhạn là hai chiếc bồ cao chất ngất, trong đó chứa đủ mọi thứ, từ cái kim sợi chỉ, chiếc đèn hoa kỳ, hộp sữa, gói thuốc lá Cô táp… cho đến cái xoong nhôm và các loại quần áo, dầy dép… Hằng ngày, bốn giờ sáng Nhạn đã trở dậy sắp xếp đi chợ. Đôi quang bồ cồng kềnh, chất ngất, nặng oằn hai vai kẽo kẹt đi năm cây số, qua bờ mương, qua cánh đồng, đến chợ lúc trời đã tảng. Gian hàng xén của Nhạn ở ngay đầu chợ Mới, cách bốt làng Động gần cây số Khoảng cách ấy, lúc nào cũng nằm gọn trong tầm ngắm ống nhòm của đồn trưởng Trương Phiên. Ở vùng thôn quê một cô gái sạch sẽ, ngon lành như Nhạn, làm sao lọt khỏi mắt một kẻ hám gái như Trương Phiên?
Cuộc chạm trán bất ngờ giữa Cam và Trương Phiên như cuộc đụng độ của định mệnh, không tránh khỏi.
Chiều ấy nàng đang nấu cơm dưới bếp đợi Nhạn đi chợ về, thì nghe tiếng xe Jeep đỗ ngoài cổng. Đồn trưởng Tây lai Trương Phiên mũ bê rê đen đội lệch, binh phục mầu cứt ngựa, giày săng đá, súng ngắn lệch bên hông, như một con gà trống đỏm dáng bước xuống trước, đỡ gánh hàng cho Nhạn. Nhìn qua lỗ thủng trái bếp, trống ngực Cam đập thình thịch như trống trận. Máu từ đâu bỗng dồn hết lên đầu, lên mặt. Trương Phiên vẫn chẳng khác gì mười mấy năm trước, khi gã tán tỉnh gạ gẫm nàng. Vẫn khuôn mặt Tây lai đỏm dáng, đôi mắt hai mí sâu phớt xanh đa tình, cái mũi dọc dừa và hàng ria mêp hung mềm xén tỉa rất cẩn thận. Trời ơi, sao thằng Cục lại giống gã đến thế, một bộ mặt mà ngay cả khi nhắm mắt lại, cảm giác ghê lạnh vẫn làm nàng gai người. Nàng căm thù gã, kẻ đã giết chết tuổi thiếu nữ của nàng. Ý định vứt bỏ đứa con trong bụng nàng, bắt đầu từ khi nàng biết đám cưới giữa gã và tiểu thư Kiều Nhi được tổ chức tại nhà hàng Gô-đa Hà Nội.
Nàng thề suốt đời sẽ không thèm nhìn mặt thằng Sở Khanh ấy. Vậy mà số phận vẫn luôn chống lại nàng. Nàng và gã đã trở thành đối thủ ở hai chiến tuyến. Đã không dưới một lần Trương Phiên nằm trong tầm súng của nàng và các đồng chí của nàng. Nhưng rồi vì tuân thủ kỷ luật của tổ chức, gã vẫn nhơn nhơn. Cuộc đời gã dường như không có lực cản. Kể từ ngày tốt nghiệp trường võ bị Sơn Tây, gã đã nhanh chóng thăng tiến trên con đường binh nghiệp. Việc gã được thăng lon trung uý, giữ chức đồn trưởng bốt làng Động là một bước tiến khá dài, chứng tỏ gã đã lập nhiều thành tích bắn giết đồng bào mình để báo vệ nước mẹ Đại Pháp. Theo sự phân loại của Việt Minh, Trương Phiên liệt vào danh sách đen, một trong những phần tử ác ôn, nợ máu.
Cam liếc nhìn quanh, như một phản xạ, tìm chỗ nấp. Nhưng quái ác, nồi cơm đang sôi, không thể nào xoá dấu vết. Nàng vơ vội chiếc khăn vuông, đội xụp quá mi mắt, ngồi thu lu bên bếp lửa.
Mặc cho Nhạn can ngăn, Trương Phiên vẫn nhất định đòi vào nhà. Chừng như Trương Phiên nhận ra vẻ không bình thường của Nhạn, hắn xông ngay xuống bếp.
- Việt Minh hả? - Bằng một động tác thô bạo, gã lật chiếc khăn. vuông của Cam.
Hốt hoảng, Nhạn chạy đến kéo tay Trương Phiên.
- Kìa trung uý. Đừng làm em nó sợ. Em gái con ông chú ruột em đó. Nó đến ở với em để chờ đến nhà hộ sinh.
Chiếc khăn vuông tuột khỏi đầu, sổ ra một mớ tóc dài đen mướt. Cam quay lại, xoáy đôi mắt phượng nhìn Trương Phiên trừng trừng, sẵn sàng chấp nhận cuộc đụng đầu. Tên đồn trưởng bỗng lùi lại, sững sờ giây lát rồi kêu lên:
- Bướm? Đúng Bướm thật rồi. Em còn đẹp hơn cả ngày xưa.
- Chào ông đồn trưởng. Ông nhầm rồi. Cái tên Bướm đã chết từ lâu rồi.
- Nhầm sao được, em Bướm. Anh đi tìm em suốt hơn mười năm qua. Ha ha, Ni sư Thích Đàm Hiên, rồi nữ Việt Minh Đào Thị Cam và cô thiếu nữ Chu Thị Bướm chỉ là một. Không ngờ trái đất tròn, để chúng ta có buổi gặp gỡ hôm nay.
- Ông đồn trưởng quá giàu trí tưởng tượng. Ông định nói đến cô Chu Thị Bướm nào vậy?
- Kìa Bướm, em đừng đóng kịch nữa. Con của chúng ta đâu? Suốt những năm qua không lúc nào anh không đi tìm mẹ con em…
Tự nhiên mắt Cam bỗng cay xè. Nàng nhớ đến thằng Cục. Nàng thầm cảm ơn ông bà Cử Phúc đã cưu mang, nuôi nấng thằng Cục. Liệu nó có biết tên đồn trưởng ác ôn Trương Phiên là cha đẻ của nó không? Và lẽ nào Trương Phiên, trong những lần đến đánh tổ tôm ở nhà Lý Phúc lại không nhận ra thằng Cục giống hắn? Hay là hắn đã biết thằng Cục và cố tình tra khảo nàng? Định mệnh thật trớ trêu. Hằng ngày cha con hắn vẫn trương gặp nhau mà hắn vẫn như kẻ có mắt như mù.
- Ông quá nhầm rồi, ông đồn trưởng ạ. Tôi chưa bao giờ là vợ ông. Tôi chưa bao giờ có con với ông.
- Đừng đùa dờn nữa Bướm ơi. Con của tôi đâu?
Trương Phiên định cầm cổ tay Cam, nhưng nàng đã nhoài người ra sau, đứng vụt dậy. Trương Phiên tròn mắt kinh ngạc khi nhận ra nàng đang sắp đến cữ đẻ.
- Trời ơi! Lại con của một thằng cộng sản? Thằng Lê Thuyết đã chết rồi? Cô đang có chửa với ai?
- Chuyện tôi có thai không liên quan gì tới ông, thưa ông đồn trưởng. Nếu ông định bắt tôi về đồn, thì xin cứ việc.
Thái độ bất cần của Cam, cái bụng chửa vượt mặt của nàng khiến Trương Phiên nhún vai, ngán ngẩm.
- Nữ Việt Minh Đào Thị Cam. Quan năm Hăng ri đờ Cuôrsơ, Tư lệnh vùng Hữu Ngạn đang treo cái đầu của cô giá năm ngàn quan đó.
- Vậy thì ông đang có cơ hội lĩnh món tiền thưởng lớn kèm thêm một chiếc mề đay nữa… - Cam cười khẩy, giễu cợt. Nụ cười ấy đã đánh trúng lòng tự trọng và tính thượng võ của Trương Phiên.
- Nể tình nghĩa hơn mười năm trước và tỏ lòng nhân đạo với đứa trẻ cô đang mang trong người, ta tha cho cô lần này. Và chỉ một lần này thôi, nghe chưa? Lần sau, chớ có để mỗ này phải ra tay.
Trương Phiên cười gằn, hất khẩu Braoninh trên tay như trò tung hứng rồi hầm hầm bước ra xe.
Sau lần chạm trán với Trương Phiên ấy, Cam phải thay đổi nơi ở. Nàng tìm một cơ sở tít vùng đồng chiêm Khu Trắng quanh năm nước ngập để sinh con. Bé trai nàng sinh giống Nguyễn Kỳ Khôi lạ lùng. Nàng đặt tên con là Lê Kỳ Chu, lấy họ Lê của Lê Thuyết ghép tên đệm của Khôi và họ khai sinh của nàng.
COCKOO
13-05-2009, 01:15 PM
Chương 4
Chàng thi sĩ của cách mạng
Từ ngày được thay tên mới, Chiến Thắng Lợi đã trở thành một cán bộ chững chạc, kiên định đường lối cách mạng. Như thép được tôi trong lửa đỏ và nước lạnh, vào tuổi hai mươi hai, anh đã có tố chất của một người đàn ông tam thập nhi lập. Đi với thượng cấp, anh chỉ có một nhiệm vụ duy nhất là tuân lệnh và phục tùng. Cấp trên ra lệnh, không cãi, không bàn lùi, không chần chừ, tuyệt đối tuân thủ và bằng mọi giá hoàn thành nhiệm vụ. Trong công việc chỉ được phép nhận chỉ thị từ người trực tiếp truyền đạt cho mình. Chỉ bàn bạc trong tổ tam tam và xin chỉ thị của thượng cấp. Thấy dấu hiệu khả nghi, phải lập tức báo cáo với thượng cấp. Không được nghe đài địch, đọc tin tức, truyền đơn của địch. Phải coi tổ chức thiêng liêng hơn tất cả, hơn cả gia đình, bố mẹ, vợ con. Sẵn sàng hy sinh chuyện riêng tư, thậm chí không có chuyện riêng tư càng tốt. Mọi thư từ, tin tức của người thân ruột thịt đều phải báo cáo với tổ chức. Những nguyên tắc ấy đã được Chiến Thắng Lợi quán triệt từng ngày, từng giờ. Từ con người cá nhân, Chiến Thắng Lợi đã hoàn toàn trở thành con người của tổ chức.
Có một lần đi công tác với thượng cấp, Chiến Thắng Lợi đã lập một chiến tích thầm lặng. Lần ấy, nước lũ bỗng đột ngột đổ về. Con ngầm đang qua trở thành dòng thác. Đồng chí thượng cấp trượt chân, bị lũ cuốn trôi hơn trăm mét. Chỉ còn chừng ba mươi mét nữa là đến thác, con thác hung dữ sẽ cuốn phăng tất cả mọi vật xuống vực xoáy. Đang cơn nguy kịch thì Chiến Thắng Lợi chạy vòng bờ vực, chặn đầu, lao xuống dòng lũ. Anh quăng đoạn dây và rất may là đồng chí thượng cấp bám được. Sau lần cứu mạng ấy, thượng cấp càng tin tưởng và lưu ý cất nhắc, đề bạt Chiến Thắng Lợi. Cuối năm 1952, anh được cử làm đoàn phó một đoàn công tác từ chiến khu Việt Bắc về các tỉnh đồng bằng để vận động đồng bào trong vùng tự do và vùng địch hậu tổ chức các đoàn dân công hoả tuyến, đóng thuế nông nghiệp, động viên sức người sức của cho kháng chiến.
Sau bốn năm ở rừng, Chiến Thắng Lợi trở về đồng bằng với ngột khí thế bừng bừng, một tâm thức mới. Cuộc kháng chiến đã vượt qua giai đoạn cầm cự và phòng ngự, tiến sang giai đoạn phản công. Chiến thắng Biên Giới, chiến thắng Hoà Bình, rồi chiến thắng Tây Bắc cuối năm 1952 đã hoàn toàn làm thay đổi cục diện chiến trường. Khí thế bộ đội Cụ Hồ như chẻ tre. Các loại vũ khí hạng nặng: xe tăng, đại bác, của Việt Minh lần đầu tiên xuất hiện khiến thực dân Pháp kinh hoàng. Các binh đoàn chủ lực đang được lệnh mở mặt trận Tây Bắc và Thượng Lào.
Đoàn công tác thuế nông nghiệp của Chiến Thắng Lợi có một số nhà văn và nhạc sĩ, có người trong số họ đã được anh vận động đưa từ Hà Nội lên Việt Bắc từ năm 1948. Một lần, trong một căn hầm trú ẩn tại một nhà dân ở Nho Quan, Ninh Bình, nhà văn Trần Nguyễn, một cây bút tên tuổi từ thời Tự lực Văn đoàn, đưa cho Chiến Thắng Lợi xem một bài thơ in trong tạp chí Bông Lúa, một ấn phẩm in ti pô của Hội Văn nghệ Liên khu Ba. Ông lè lưỡi lắc đầu:
- Tác giả Nguyễn Kỳ Vỹ này là một thằng cha mới toanh. Nhưng thơ hắn thì tuyệt quá. Giọng điệu vừa mới, vừa trẻ. Không kém gì Ximônốp, Baudelaire, Lamartine.
Vừa liếc thấy tên tác giả Nguyễn Kỳ Vỹ, tim Chiến Thắng Lợi đã đập liên hồi. Anh đọc như nuốt từng câu:
SỐNG
Anh đã chết sau những ngày tăm tối
Sau trăm năm kiếp nô lệ lầm than
Nước mất, nhà cũng tan như nước
Gót giày đinh cày ngang dọc quê hương
Đành gác lại nụ hôn chờ kiếp khác
Đừng trách anh hờ hững hỡi em yêu
Vì nước, thà bọc thây da ngựa
Chí nam nhi sao tiếc một Giáng Kiều
Anh không thẻ sống kiếp đời nô lệ
Nàng thơ ơi, đừng níu giữ chiến bào
Trống đồng giục, gọi trai Phù Đổng
Rũ bùn bay tới triệu vì sao.
Chiến Thắng Lợi nhìn mãi vào cái tên tác giã Nguyễn Kỳ Vỹ ở đầu bài thơ. Đúng là thằng em trai anh rồi. Nguyễn Kỳ Vỹ. Bài thơ này của nó thật rồi. Lợi đưa mắt nhìn nhà văn Trần Nguyễn thăm dò. Phải cảnh giác với ông nhà văn này. Ông ấy biết Nguyễn Kỳ Vỹ là em trai mình chăng? Tuổi nó sao lại viết bài thơ này nhỉ? Toàn yêu đương trai gái. Giữa lúc cả dân tộc lo đánh giặc mà lại làm thơ hôn hít nhau. Sặc mùi tiểu thư sản, uỷ mị, sướt mướt, phản động. Ông nhà văn này lập trường có vấn đề. Vẫn rơi rớt giọng điệu sướt mướt, nhập nhoà giai cấp từ thời Tự lực Văn đoàn, Tiểu thuyết Thứ Bảy. Hay ông ta định thử lập trường giai cấp của mình? Hãy coi chừng những viên đạn bọc đường.
- Theo em, bài thơ này phản động anh ạ. Lập trường tiểu tư sản. Thơ ca cách mạng không thể như thế này được. Nguy hiểm lắm. Trai gái sẽ hôn hít nhau lung tung và quên ý chí cách mạng, thủ tiêu đấu tranh giai cấp… Ông Tổng biên tập Bông Lúa này có vấn đề. Cần phải báo cáo với thượng cấp.
Nhà văn Trần Nguyễn trố mắt nhìn Chiến Thắng Lợi như đang nhìn một dị vật. Ông lắc đầu, lấy bi đông rượu, rót ra chiếc chén mắt trâu mầu da lươn lúc nào cũng đem theo mình, chiêu một hớp rồi khà một tiếng.
- Quan điểm về nghệ thuật của chú mày không ổn. Anh thất vọng đấy. Tao là dân văn xuôi, nhưng không đến nỗi ngu si không biết thưởng thức thơ như chú mày tưởng đâu. Thơ của thằng Nguyễn Kỳ Vỹ này mới là thơ chính hiệu. Thơ yêu nước, thơ cách mạng hẳn hoi đó. Mày quen xài thứ thơ ca hò vè hô khẩu hiệu thì làm sao sực nổi loại thơ này. Tay Tổng biên tập tờ Bông Lúa có con mắt xanh đó.
Định gác lại nụ hôn chờ kiếp khác
Đừng trách anh hờ hững hỡi em yêu
Vì nước, thà bọc thây da ngựa
Chí nam nhi sao tiếc một Giáng Kiều
Thấy chưa? Lập trường giai cấp, tình yêu nước, lòng căm thù giặc Pháp của thằng cha này gấp vạn lần anh em mình. Tình yêu là thuộc tính của con người. Tình yêu trai gái càng thiêng liêng trân trọng. Vậy mà người con trai đành gác lại nụ hôn để ra đi cứu nước. Nụ hôn của tình yêu đôi lứa là một tín hiệu thiêng liêng. Nhưng tình yêu nước còn thiêng liêng hơn. Khi Tổ quốc còn rên xiết dưới gót dày ngoại bang thì nụ hôn người yêu là sự tủi sầu, là hành vi thấp kém của một kẻ nô lệ. Tình yêu cá nhân phải nằm trong tình yêu lớn dân tộc. Đã là người Việt Nam ta, ai cũng có tình yêu nước, và họ yêu nước theo cách riêng của mình. Giữa Trần Thủ Độ và Trần Quang Khải, giữa Hồ Quý Ly và Lê Lợi… chưa chắc ai đã có tình yêu nước hơn ai. Đừng độc quyền tình yêu nước. Phải khách quan nhìn nhận và nâng niu tình yêu nước ở mỗi người. Nguyễn Kỳ Vỹ đã nói được tiếng nói của tuổi trẻ, của cả một thế hệ đang cầm súng kháng chiến. Đời người làm thơ chỉ ước viết được những câu thơ như thế. Tay Nguyễn Kỳ Vỹ này xứng đáng là thi sĩ của cách mạng. Mày biết các chiến sĩ ta đang truyền tay nhau đọc bài thơ này không? Quần chúng tinh nhạy lắm. Thơ hay là họ ngửi thấy liền. Bao nhiêu chàng trai đã chép vào sổ tay và học thuộc bài thơ này đó…
- Thật vậy hả anh? - Chiến Thắng Lợi giỏng tai, há hốc miệng.
- Một bài thơ hay có sức mạnh bằng cả một sư đoàn. Ông Lênin từng nói như vậy. Cho nên ông ta mới coi Gorki là con chim báo bão, là nghệ sĩ lớn của cách mạng. Maiakôpski là nhà thơ tiên phong của giai cấp công nhân, người hiệu triệu của chính quyền Xô Viết. Cho nên Cụ Hồ Chí Minh mới chỉ thị cho các chú gọi bọn tớ lên tập họp ở Việt Bắc để phụng sự kháng chiến. Chính sách đối với văn nghệ, với trí thức của ông Cụ là tài tình lắm. Chỉ một lời hiệu triệu của ông Cụ là bao nhiêu người tài giỏi từ Pháp, từ Nhật, từ Anh, từ Nga Xô, Trung Quốc cho đến những người tài trùm chăn ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn… đều lên chiến khu, bưng biền phụng sự kháng chiến cả. Việt Minh sẽ chiến thắng bọn thực dân đế quốc Pháp vì họ đã làm được một kỳ tích là tập hợp toàn dân trong một đại hội Diên Hồng mới, phát động toàn dân triệu người như một…
Nhà văn Trần Nguyễn lại nhấp một tợp rượu, rồi tự ông rót một chén đưa cho Chiến Thắng Lợi.
- Chú mày tiếp xúc nhiều với cánh văn nghệ sĩ bọn anh, phải thấm nhuần lời dạy của ông Cụ là phải biết nâng niu tài năng, trọng kẻ sĩ. Hiền tài là nguyên khí quốc gia, đó là tư tưởng của cha ông mình, đã từng được ghi trong văn bia Văn Miếu - Quốc Tử Giám: Nói thực với chú, bọn anh cũng có cái kiêu của kẻ có tài. Để có một tài năng, một người tài, ngoài cái trời cho, còn phải nhờ tư chất, nhờ ghen di truyền, nhờ khổ luyện. Người thường có thể có hàng triệu, nhưng người tài thì chỉ có một vài. Tay Nguyễn Kỳ Vỹ này là một người tài. Anh dám chắc với chú mày điều này. Rồi chú mày xem. Nếu được tin dùng, được cách mạng trọng dụng, Nguyễn Kỳ Vỹ sẽ là một con chim báo bão, một thi sĩ đích thực của cách mạng…
Chiến Thắng Lợi như nuốt lấy từng lời. Chưa bao giờ anh thấy nhà văn Trần Nguyễn lại cởi mở hết ruột gan như lúc này. Nếu quả đúng như ông nhà văn nói, thì sau đợt công tác này anh phải về qua nhà, phải rủ Nguyễn Kỳ Vỹ lên chiến khu Việt Bắc. Chính anh sẽ giới thiệu Vỹ với tổ chức. Chính anh sẽ bồi dưỡng Vỹ về phẩm chất chính trị, lập trường giai cấp tư cách đạo đức. Anh em ruột thịt còn gì hơn là giúp nhau lúc này. Anh sẽ có công với cách mạng, và Vỹ cũng được dịp làm rạng rỡ gia đình, dòng họ. Với trình độ Thành chung, giỏi tiếng Pháp, lại có tài thơ, nếu được làm báo Vệ Quốc, báo Độc Lập hay một công việc gì đó dính dáng đến tuyên huấn, văn chương, chắc chắn Vỹ sẽ trở thành một ký giả xuất sắc, một thi sĩ tài năng của cách mạng.
COCKOO
13-05-2009, 01:16 PM
Trong trang phục một ký giả, quần áo màu ghi, mũ phớt xám, Chiến Thắng Lợi về làng Động gần giờ giới nghiêm.
Làng Động, ba năm nay, từ khi có bốt địch đóng sừng sững giữa làng, trở thành một làng tề an toàn nhất của địch. Cùng với hệ thống bốt Liên Đạo, Phủ Cũ, Thanh Am, Can Xá, Đanh, Tiêu Bồ, thực dân Pháp đã thiết lập được một vành đai bảo vệ Hà Nội, bao vây vùng Khu Trắng, khu an toàn bất khả xâm phạm của Việt Minh. Từ hệ thống đồn bốt vành đai, thỉnh thoảng địch tổ chức các trận càn thọc sâu xuống những làng Trầm tiêu hao lực lượng kháng chiến.
Mấy năm xa làng, cuộc trở về lần này khiến Chiến Thắng Lợi có cảm giác lạ lẫm, hệt như một đứa trẻ từ ao tù đi ra biển rộng, nay lại về thăm chốn cũ.
Làng Động của anh đây, một vùng quê nghèo, xung quanh bao bọc kín mít bởi những luỹ tre dày, nổi lên giữa ba bề đồng trống, như một ốc đảo. Nghe các cụ nói lại, ngày ông thượng tổ Lý Kỳ Phong rời trang Vân Đồn về lập nghiệp, làng Động mới là một gò đất giữa mênh mông nước. Mùa gặt chưa tới, bọn cướp ngày từ vùng đồng trũng ven sông Hồng, sông Điền đã kéo nhau từng đàn vào gặt trộm. Chúng cưỡi trên hàng trăm chiếc thuyền tam bản, phi như bay trên đồng ngập trắng. Liềm, hái, đòn xóc, sào tre vừa là công cụ gặt trộm vừa là vũ khí giết người lợi hại. Nhưng thượng tổ Lý Kỳ Phong vốn là dân sông nước, võ nghệ siêu quần, không phải tay vừa. Ông trồng tre ken dày quanh làng, dày tới mức tên bắn không qua. Ông cho đan những chiếc bồ tre khổng lồ, hàng chục người ôm, cao mấy đầu người để trữ thóc. Ông dựng những chòi canh trên ngọn cây cao, nhìn xa hàng mấy dặm, tít xuống những làng Trầm dưới kia. Ông cho làm nhiều thuyền nan, nhiều câu liêm, dao quăng, nhiều cung tên để chiến đấu với giặc cướp. Làng Động từ đó thực sự trở thành một pháo đài…
Xét theo góc độ lịch sử, dòng họ Lý, sau này đổi thành Nguyễn Kỳ, có công lao khai phá, dựng nghiệp, nhưng đồng thời lại trở thành những đại địa chủ bóc lột bần cố nông, càng đến thời kỳ phong kiến thực dân gần đây, càng bộc lộ tính chất phản động, ngăn cản sự tiến hoá của xã hội. Những ngày ở chiến khu Việt Bắc, được đả thông tư tưởng, học tập lý luận, bồi dưỡng quan điểm giai cấp, Chiến Thắng Lợi đã nhìn nhận cái làng Động của anh, cái dòng họ Nguyễn Kỳ của anh với một góc nhìn hoàn toàn khác, một cái nhìn đậm tính duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Sẽ đến lúc phải phá bỏ những luỹ tre nghìn đời cổ hủ, phong kiến kia đi. Sẽ đến lúc đập bỏ cái sào huyệt Nguyễn Kỳ Viên mà thầy anh đang ôm giữ khư khư kia nữa. Sẽ phải tiến tới thế giới đại đồng, giai cấp vô sản làm chủ toàn cầu…
Theo sự chỉ dẫn của cơ sở, Chiến Thắng Lợi tránh đi lối đình, nơi bọn lính bảo an đóng bốt, để vòng qua ngõ xóm Thượng về Nguyễn Kỳ Viên.
Qua rặng tre um tùm, qua những cái vườn bỏ hoang, nơi xưa kia là sào huyệt của bọn ma tịt, Chiến Thắng Lợi đã nhìn thấy khu nhà thâm nghiêm của anh sáng rực ánh đèn. Có chuyện gì mà đèn đuốc sáng chói vào giờ này? Không thể vào nhà bằng cổng chính, anh men theo bờ rào, lọt qua một khe bí mật chỉ riêng mình anh biết, rồi vòng qua khu nhà ngang, trèo lên cây muỗm um tùm, dõi mắt nhìn hai chiếc xe con, một chiếc xe Jeep nhà binh, một chiếc Renault màu sữa, đỗ ngay gần sát cổng. Một tên lính áo vàng, súng lăm lăm trong tay đang đi lại tuần tra. Lẽo đẽo theo hắn là con bécgiê cực lớn có sợi xích trắng quấn quanh cổ.
Bọn địch ở bốt làng đã đoán Khôi về, phục kích đón lõng chăng? Kiểm tra lại khẩu súng giắt trong người, Chiến Thắng Lợi nằm ép trên cây muỗm nghe ngóng rồi tìm cách trườn sang nóc dãy nhà ngang. Kia rồi, thầy anh, ông Cử Phúc, bây giờ dân làng gọi là Lý Phúc, đang ngồi giữa một bàn tổ tôm.
Tất cả có sáu người. Ánh sáng ngọn đèn ba dây và hai cây đèn toạ đăng chiếu vào chiếc sập gụ gian bên nhà thờ cho anh nhận ra một người quen: ông Hội Thiện người làng Nghi Sơn, bạn thân của thầy anh. Bên cạnh là một người trẻ tuổi mặc vestông trắng, tiếp nữa là ba sĩ quan nguy, hai người chơi bài, một người chầu rìa. Theo như phán đoán của Chiến Thắng Lợi, thì tên sĩ quan ngồi cạnh ông Hội Thiện trông giống Tây lai, có thể là Trương Phiên, đồn trưởng bốt làng Động, kẻ khét tiếng ăn chơi và là một tay tổ tôm cự phách trong vùng.
Một nỗi đau, chen nỗi uất ức trào lên, khiến mặt Chiến Thắng Lợi nóng bừng bừng. Thầy anh không phải làm nhiệm vụ hai mang như Cam đã từng nói với anh trong ba ngày gặp nhau ở Phương Đình ấy, mà ông đang làm tay sai cho địch thật rồi. Gần mực thì đen. Những cuộc cờ bạc thâu đêm này bắt đầu từ bao giờ? Cái tin ông Cử Phúc ra làm lý trưởng làng Động đã đến tai Chiến Thắng Lợi từ khi anh còn trên chiến khu. Tin ấy đến cả tai tổ chức. Làm sao mà bào chữa được? Bây giờ thì tận mắt anh nhìn thấy cha mình đang thản nhiên, thậm chí hứng thú khi ngồi chơi tổ tôm với kẻ thù của nhân dân.
Cố nuốt mấy lần mà cái cục trong yết hầu vẫn chẹn ngang cổ, Chiến Thắng Lợi muốn ném một quả lựu đạn, xả mấy băng đạn vào giữa bàn tổ tôm kia. Nhưng rồi nhìn thấy con bécgiê như con cọp xám, tên lính vệ sĩ to như ông hộ pháp cắp khẩu tiểu liên đi lại trước cái sân rộng mênh mông, anh đành nuốt nước mắt, bất lực.
***
Cuộc tổ tôm đã ù đến ván thứ mười ba. Ông Lý Phúc ù ba ván Bạch định, bốn ván Thông tôm lèo, hai ván Chi chi. Còn lại bốn ván thì Trương Phiên chiếm ba, ông khách ù một ván suông. Hoá ra Lý Phúc vẫn là một tay tổ tôm sừng sỏ không có đối thủ. Cay cú nhất là Trương Phiên. Gã đã chót khoe với Phán Liêu, người mặc complê trắng, hiện đang có chân trong Hội đồng dân biểu Bắc Kỳ, rằng đêm nay gã sẽ móc túi Lý Phúc đến đồng xu cuối cùng.
Thực ra cuộc sát phạt này không phải là mục đích chính của Phán Liêu. Đầu tháng tới nếu không có gì thay đổi, ông sẽ được bổ nhiệm tri huyện Phương Đình thay viên quan huyện cũ nhu nhược để cho Việt Minh lấn lướt. Đây là dịp quan huyện tương lai tiếp xúc với Chánh tổng Thiện và Lý Phúc để dò la xem hai người cộng sự sắp tới của ông như thế nào. Đã có những chứng cứ của điệp viên nằm vùng cho hay hai nhân vật này do Việt Minh cài vào hàng ngũ của Pháp.
Bằng cứ rõ nhất là tháng trước Lý Phúc vừa bị quan Tây bốt Phủ tống giam hai ngày vì đã cố tình che giấu một tên cộng sản đầu sỏ ở trong làng. Chuyến ấy không có Chánh tổng Thiện và Trương Phiên xin khéo thì Lý Phúc có thể bị án tù vài năm.
Có một người mà trong suốt cuộc tổ tôm cứ đi như con thoi từ trên nhà xuống bếp khiến Chiến Thắng Lợi căng mắt quan sát và suy đoán mãi. Không phải Vỹ, Vọng. Cũng không phải Cục. Chắc dì và ba thằng em đã đi ngủ từ lâu rồi. Phải một lúc sau Lợi mới nhận ra anh Đĩ Ngao mặt rỗ chằng rỗ chịt bên hàng xóm, con ông Mõ Ngò, người chuyên giết lợn và làm cỗ thuê trong làng. Đĩ Ngao là loại mạt hạng cùng đinh nhất làng Động, bố và ông nội là dân ngụ cư, xin làm mõ cho làng, được cụ Đồ Kha hết lòng cưu mang, cho hẳn một dải đất ven ao làm nhà. Từ đời ông nội Lợi đã coi bố con Đĩ Ngao như con cái kẻ ăn người làm trong nhà, có đám, có việc gì Đĩ Ngao đều đánh hơi mò đến, cúc cung tận tuy. Dĩ nhiên, thớt có tanh tao ruồi mới đến. Cả nhà Đĩ Ngao đã thành tinh trong việc ăn vụng, ăn bớt. Kia, cái món ở dưới bếp ngào ngạt mùi thơm kia hẳn là ông thầy ăn một, bà cốt ăn hai. Đĩ Ngao đang bứng lên một nồi cháo gà thơm phức, thận trọng múc ra những bát ô tô to bằng sứ Giang Tây…
Đến lúc này Chiến Thắng Lợi mới thấy đói cồn cào. Hơi cháo gà bay ngạt ngào khiến con becgiê cũng khụt khịt như thèm thuồng.
Bỏ lên chiến khu ư? Cuộc trở về làng Động sau bốn năm biền biệt lại ngao ngán và đắng đót như thế này sao? Chợt nghĩ đến Nguyễn Kỳ Vỹ và bài thơ "Sống" Chiến Thắng Lợi đành dằn lòng lại. Thời gian này là lúc Vỹ đang nghỉ hết năm học để chuẩn bị lên học tú tài. Bằng mọi giá anh phải gặp Nguyễn Kỳ Vỹ, thuyết phục Vỹ lên chiến khu Việt Bắc. Nếu quả thực Vỹ là tác giả bài thơ sống thì chuyến này anh sẽ làm được công việc chiêu hiền ngang với tam cố thảo lư của Lưu Bị cầu Gia Cát Khổng Minh. "Thân hiền giá hiền dã, năng tiến hiền già diệc hiền dã". Tự mình hiền tài thì là nhân tài rồi, nhưng biết tiến cử người hiền tài cũng là nhân tài. Câu nói của Lưu Hướng đời Hán mà thầy vẫn dạy cho Khôi ngày trước, anh ghi tận đáy lòng. Khôi trườn trên nóc nhà, tìm đến gian nhà ngang nơi ba đứa em của anh ngủ. Có ánh đèn hắt lên khe ngói. Rất có thể Vỹ chưa ngủ. Nhẹ nhàng tháo một viên ngói ở đầu hồi, nhìn xuống, Khôi nhận ra Vỹ đang ngồi trước bàn. Ngọn đèn hoa kỳ hắt xuống một cuốn sách đang để mở.
- Tắc kè… tắc kè… tắc kè.
Ba tiếng tắc kè bỗng vang lên. Không phải năm tiếng như con tắc kè vẫn kêu ở trên cây muỗm đầu nhà thờ, mà chỉ có ba tiếng. Đó là ám hiệu chỉ riêng Khôi và Vỹ ngầm biết với nhau từ ngày Khôi còn ở nhà.
COCKOO
13-05-2009, 01:17 PM
Tên lính cận vệ dừng lại, dỏng tai nghe ngóng.
Nguyễn Kỳ Vỹ dừng đọc sách, ngẩng lên mái nhà. Bằng linh cảm, Vỹ biết anh Khôi đã trở về. Đúng là anh Khôi rồi. Ba tiếng tắc kè này Vỹ đã chờ đợi suốt bẩy năm, từ ngày anh Khôi thoát ly gia đình đi theo cách mạng. Rất nhiều đêm không ngủ, Vỹ nằm chong mắt nhìn lên mái nhà nghĩ về anh Khôi và mơ ba tiếng tắc kè.
Lách qua khe cửa, Vỹ len lén đi phía sau, nơi có đống rơm và những bụi chuối. Quan sát bốn phía, rồi Vỹ bắc loa tay hướng về phía cây muỗm đáp lại ba tiếng tắc kè… tắc kè… tắc kè… Đó là ám hiệu anh em đã nhận ra nhau.
Cho đến khi hai anh em ôm chầm lấy nhau ở chân đống rơm góc vườn, sau dãy nhà ngang, thì Chiến Thắng Lợi hoàn toàn tin rằng tiếng tắc kè của anh đã trở thành nỗi chờ đợi đau đáu trong lòng đứa em cùng cha khác mẹ biết chừng nào.
- Em nhớ anh từng ngày. Em không muốn đi học nữa. Em muốn lên Việt Bắc với anh.
Đó là những câu nói đầu tiên của Nguyễn Kỳ Vỹ với người anh trai sau mấy năm xa cách. Với Vỹ, Khôi là niềm tự hào, là ngưỡng vọng, là biểu tượng của kháng chiến. Ở trường, Vỹ công khai khoe với bạn bè có anh trai đi làm cách mạng. Đã hai lần Vỹ ẩu đả, đấm thẳng vào mồm thằng Hạnh mặt lưỡi cày khi nó dám nói xấu anh Khôi, thoá mạ kháng chiến. Tin tức về những chiến thắng dồn dập của Việt Minh ở Việt Bắc lan truyền trong các lớp học. Rồi mỗi tuần, mỗi tháng lại có một vài học trò bỏ lớp, ra vùng tự do theo bộ đội. Không khí học đường tan tác như phiên chợ chiều, càng khiến Vỹ như ngồi trên đống lửa. Vỹ ngán ngẩm, thậm chí vứt xó tất cả những cuốn tiểu thuyết chàng, nàng của Khái Hưng, Nhất Linh và nhóm Tự lực Văn đoàn. Anh không thiết đọc La Martin, Huygô, Bođơle, Volte và trường phái cách tân, lãng mạn Pháp. Anh chép vào trang đầu cuốn sổ những câu thơ trong bài "Nhớ rừng" của Thế Lữ:
Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua.
Vỹ tự ví mình như con hổ bị giam cầm mà chốn rừng xanh có ý ám chỉ vùng Việt Bắc xa xôi, nơi có anh Khôi và những người yêu nước đang kháng chiến.
- Đêm nay thầy phải tiếp tổ tôm đồn trưởng Trương Phiên đến khuya. Chúng nó biết anh về thì nguy hiểm lắm. Tạm thời anh phải nằm chờ ở dưới hầm. Em phải lên nhà xem động tĩnh thế nào.
Vỹ thì thầm vào tai Chiến Thắng Lợi và dẫn anh trai xuống căn hầm bí mật ngay dưới chân bụi tre sau dãy nhà ngang. Căn hầm bí mật này ông Lý Phúc đã cho đào ngay sau khi ông nhận chức lý trưởng làng Động. Đó là một căn hầm khá kiên cố, dài ba mét, rộng hai mét hai, cao ngập đầu người, thông từ ngách kho lúa xuyên ra giữa bụi tre, có thể chứa hơn chục người. Căn hầm bí mật đã giúp Lý Phúc làm việc hai mang một cách suôn sẻ. Nhiều cuộc họp bí mật của các cốt cán Việt Minh trong vùng đã được tổ chức ngay dưới hầm. Có thời kỳ Bí thư huyện uỷ Phương Đình ở trong nhà Lý Phúc cả tuần. Có trường hợp, trên nhà Lý Phúc đánh tổ tôm với đồn trưởng Trương Phiên, nhưng dưới hầm cán bộ Việt Minh vẫn ung dung hội họp. Mới hơn một tháng trước đây, nhờ căn hầm này mà một thượng cấp của Việt Minh về chỉ đạo phong trào đã được cứu thoát. Chuyến ấy Lý trưởng Phúc bị bắt giam trên bốt Phủ hai ngày, bị ghi vào sổ đen nghi có cảm tình với Việt Minh. Ngay cả đồn trưởng Trương Phiên cũng bị khiển trách, suýt bị hạ một gạch sao.
Tờ tạp chí Bông Lúa mà Chiến Thắng Lợi dúi vào tay Vỹ ở cửa hầm còn hơn cả mọi thứ quà tặng quí giá. Người Vỹ cứ run lên, con tim như muốn nhảy khỏi lồng ngực khi anh đọc thấy tên Nguyễn Kỳ Vỹ và bài thơ "Sống" của mình. Vậy là chị Cam đã giữ đúng lời hứa. Chị Cam đã gửi bài thơ Vỹ viết cho anh Khôi. Và anh đã giận in trên tạp chí Bông Lúa này đây.
Vỹ nhớ lại lần gặp chị Cam hồi năm ngoái, khi chị đóng vai một bệnh nhân của thầy đến ở trong căn hầm bí mật. Cả tuần lễ chị Cam hay hỏi Vỹ về Khôi, lúc nào cũng hỏi về anh Khôi. Chị bảo đã quen anh Khôi từ ngày Tổng khởi nghĩa. Giữa hai người có nhiều kỷ niệm với nhau trong những ngày hoạt động bí mật. "Vỹ viết thư đi, chị sẽ gửi anh Khôi cho" - Chị nài nỉ Vỹ.
Tiếp xúc với Cam, Vỹ không chỉ thấy ở chị những nét đẹp hình thể, mà ở chị luôn toát lên vẻ đẹp tinh thần. Đôi mắt tuyệt đẹp của người nữ cán bộ Việt Minh luôn nhìn Vỹ một cách khác lạ ấy, hay đôi môi hình trái tim đầy quyến rũ của Mai, cô bạn gái xóm Chùa, đã gợi tứ cho Vỹ viết bài thơ "Sống"? Lạ thế, chưa từng hôn một người con gái nào mà bài thơ ấy Vỹ chỉ viết trong một đêm, viết như nhập đồng, viết trong một cảm xúc thăng hoa, ngây ngất. "Em vừa viết được một bài thơ. Em nhờ chị gửi cho anh Khôi em nhé!" Vỹ khoe với Cam. Chị đọc xong và bảo: "Chị không biết thưởng thức thơ. Nhưng nếu chị là cô gái được em làm thơ, thì chị hạnh phúc lắm. Chị sẽ gửi lên việt Bắc cho anh Nguyễn Kỳ Khôi bài thơ này".
Những kỷ niệm cứ nhảy nhót, reo vui như tiếng reo của ánh lửa ngọn đèn dầu, ru Vỹ vào giấc ngủ chập chờn. Anh nằm gục trên bàn, hai tay vòng ôm cuốn tạp chí để mở.
***
Quá nửa đêm thì chiếu tổ tôm tan. Người khách mặc vestông trắng và thầy trò đồn trưởng Trương Phiên cùng con chó becgiê leo lên xe Jeep và chiếc Renault về đồn.
Có tiếng thì thào của hai người đàn ông bên tai Vỹ. Anh lờ mờ nhận ra tiếng của thầy và bác Hội Thiện:
- Thằng cha dân biểu này có nước bài chờ ù thông tôm lèo rất hiểm. Mấy lần tôi ra hiệu mà bác không hiểu ý.
- Tôi biết. Nhưng không muốn lộ liễu. Vậy là chúng ta đã biết rõ kế hoạch của thằng Phán Liêu trong ba ngày tới. Trừ hắn sớm ngày nào cơ sở của chúng ta đỡ bể ngày ấy.
- Mai hắn đi thị sát bốt Ba Thấu.
- Phải mật báo với cơ sở của ta tìm cách khử hắn ở đầu cầu Ba Thấu chiều tối mai.
- Bác cứ yên tâm. Sáng sớm mai X5 sẽ nhận được kế hoạch.
Tiếng thì thào mỗi lúc một xa dần.
Vỹ vùng tỉnh dậy. Trước mặt anh là ông Lý Phúc. Ông vừa nói chuyện với bác Hội Thiện về tay dân biểu mặc áo vestông trắng.
- Con đã hứa với thầy là không thức khuya rồi cơ mà - ông Lý Phúc đặt tay lên vai Vỹ, nhìn anh nghiêm khắc. Rồi ông chợt chớp mắt nhìn thật kỹ cuốn tạp chí dưới tay Vỹ - Cái gì thế này? Tạp chí Bông Lúa à? Ở đâu ra? Ai đưa cho con tạp chí này? Nguy hiểm lắm, con ơi. - Ông Lý Phúc thoáng nghi ngờ, nhìn quanh.
- Dạ thưa thầy…
Vỹ sực nhớ anh Khôi vẫn ở dưới hầm. Có nên nói với thầy không? Bác Chánh tổng Thiện đêm nay ngủ lại, nói có tiện không?
Thấy Vỹ ấp úng, ông Lý Phúc càng nghi ngờ. Ông lật giở vài trang, và chợt đọc thấy cái tên Nguyễn Kỳ Vỹ và bài thơ "Sống" của anh.
- Dạ, thưa thầy, anh Khôi mang về cho con cuốn tạp chí này.
- Nó đâu? Anh Khôi con đâu? - Mặt Lý Phúc thất sắc. Ông lắng nghe tiếng chó sủa rộ lên ở đầu xóm Chùa - Sao con không nói với thầy ngay lúc anh con về?
- Dạ, con sợ… Con giấu anh dưới hầm… Chắc là anh Khôi đang đói…
Ông Lý Phúc vào buồng đánh thức vợ. Cả nhà cuống cuồng. Bữa ăn tối cho Khôi được gấp rút chuẩn bị. Nhưng đến khi ông Lý Phúc và Vỹ xuống hầm thì Khôi đã nằm duỗi dài trên chiếc chõng tre kê ở góc hầm ngáy pho pho.
Suốt ngày hôm sau, hai anh em chơi với nhau dưới hầm bí mật. Việc Khôi về nhà được giữ kín cả với thằng Vện, thằng Cục và cái Hậu, cô con gái út mới ba tuổi.
***
- Em có biết nhà văn Trần Nguyễn không? - Chiến Thắng Lợi nhớ lại cuộc nói chuyện ở Nho Quan, Ninh Bình.
- Một nhà văn hàng đầu trong nhóm "Tiểu thuyết Thứ Bẩy" - Vỹ đáp - Con người ngang tàng và lãng tử ấy đi theo kháng chiến khiến cho uy tín của Việt Minh tăng lên gấp bội. Thầy dạy văn em bảo, văn ông có hơi vã mùi riêng biệt, không lẫn lộn với bất kỳ nhà văn đương đại nào. Một con người rất có cá tính. Em phục nhất loạt bài ông viết về cái chết của nhà văn tả chân Vũ Trọng Phụng. Trời ơi, không có tình bạn nào cao cả hơn tình bạn của các văn nhân. Đọc "Đêm đưa ma Phụng" của Trần Nguyền, em khóc ròng…
- Con người đầy cá tinh và kiêu căng ấy khen em đến không bút nào tả xiết. Ông gọi em là "chàng thi sĩ của cách mạng". Chính nhà văn Trần Nguyễn đã cho anh đọc bài thơ "Sống" của em đó. Ông cất giữ tờ tạp chí Bông Lúa, như một báu vật.
- Thật thế ư? - Vỹ sửng sốt. Đôi mắt sáng lấp lánh trong bóng tối căn hầm - Vậy mà em cứ tưởng chị Cam đã gửi nó cho anh.
Chiến Thắng Lợi giật nẩy người khi nghe nói đến Cam.
Bốn năm rồi anh không gặp nàng. Không ngờ cuộc chia tay ở phố Lương Đình xa dằng dặc không có ngày gặp lại. Thời kỳ mang tên thẻ căn cước Nguyễn Khắc Khang hoạt động trong nội thành Hà Nội đã mấy lần anh tự vi phạm kỷ luật, trốn tổ chức, trở về tìm nàng. May mà năm đó anh không phát điên, nỗi nhớ quằn quại hành hạ anh hằng đêm. Nhắm mắt lại là anh thấy nàng. Đôi mắt phượng nhìn xoáy vào tim. Nụ cười với hàm răng trắng loá đến mê hồn. Anh sẵn sàng đánh đổi hàng trăm thiếu nữ mười tám đôi mươi nhan sắc, để có được nàng. Nàng đã cho anh ăn canh ngải bùa mê khiến anh lú lẫn, lúc nào cũng mơ tưởng, như người mộng du. Hồi về tìm nàng ở phố Phương Đình cỏ người bảo Cam có chửa và đã sinh con. Có người lại bảo Cam theo một gã buôn bè, sống phiêu bạt trên sông Điền. Có chửa với ai? Sinh con với ai? Đi với thằng nào trên sông Điền? Mối ngờ vực dày vò Khôi mấy tháng liền. May mà sau đó thượng cấp điều anh lên chiến khu chấm dứt thời kỳ yêu đương mù quáng, điên rồ.
Việt Bắc quả là trường học vĩ đại của cách mạng. Giống như một con chiên khi đã quì trước bàn thờ Chúa, chỉ còn biết rũ bỏ thế giới trần tục, gột rửa mọi tội lỗi để hướng tới đấng Cứu thế, mơ được cứu rỗi, được hé mở tới cỡi thiên đàng, Nguyễn Kỳ Khôi cũng đã biết cách trút bỏ mối tình ngang trái đầy mê hoặc của tuổi mới lớn để tu thân và mong được thượng cấp tin dùng. Trong cuộc sám hối và đoạn tuyệt quá khứ đầy cực nhọc và vất vả này, Khôi đặc biệt cám ơn cuốn cẩm nang "Mười điều răn". Anh thuộc lòng từng câu từng chữ mười điều răn và mỗi ngày nhẩm đọc đúng hai mươi lần.
Một là đừng mất lập trường
Hai là tư tưởng dẫn đường Mác-Lê
Ba là giai cấp phân chia
Bốn là đạo đức không lìa lương tâm
Năm là xa lánh tà dâm
Sáu là kim chỉ của dân chớ màng…
COCKOO
13-05-2009, 01:18 PM
Hoá ra cuộc tình éo le chênh lệch tuổi tác giữa anh và Cam nằm trong điều răn thứ năm. Thực chất của nó là tội hủ hoá, suy đồi đạo đức. Bằng kinh nghiệm lọc lõi và trải đời của một người đàn bà có mấy đời chồng, Cam đã cám dỗ và lùa Khôi vào con đường truỵ lạc. Và Khôi, do không kìm nén được dục vọng, sự ham muốn nhục đục, thể xác, đã đồng loã và kích thích thói dâm ô ở Cam. Ai có thể tin nổi rằng, một cặp trai gái lại có thể quấn quít lấy nhau suốt ba ngày trời, tức là bầy mươi hai tiếng đồng hồ không kể ngày đêm, và ngày nào cũng quấn nhau bầy, tám cuộc tình? Mèo mả với gà đồng. Bà già gặp kẻ cắp. Hay là thói dâm ô đã đẩy lên thành bệnh hoạn? Tội hủ hoá và đồi truỵ là kẻ thù rất nguy hiểm của cách mạng.
Như kẻ phàm trần đã ngộ ra mọi điều, quyết chí xuống tóc hầu cửa Phật, Khôi đã xé hết đốt hết mọi thư từ, nhật ký, vật dụng có liên quan đến Cam, xoá cả hình ảnh, kỷ niệm, nhớ nhung trăn trở về nàng. Khôi nhận ra cuộc dan díu với Cam là một sự điên rồ, nguy hiềm. Chi cần tổ chức phát hiện ra, tương lai, tiền đồ của anh sẽ tiêu tan hết. Gặp ai từng quen Cam, nói về nàng, Khôi đều lảng tránh, không biết hoặc không nghe. Anh thực sự muốn cắt bỏ, muốn xoá sạch dấu vết quãng thời gian yêu đương tội lỗi với người đàn bà đầy quyến rũ và nguy hiểm ấy.
Rất may, thời gian có sức công phá và xoá bô mọi điều, dù đó là tình yêu của thánh thần. Rất may, tổ chức đã đặt cho Khôi cái tên mới Chiến Thắng Lợi. Anh đã trở thành một con người khác. Không có quá khứ. Không có những mối ràng buộc cũ. Nhiều lá thư gửi lên Việt Bắc, đề tên Nguyễn Kỳ Khôi, bị văn thư gửi trả lại hoặc ném vào sọt rác, coi như không có người nhận. Thảng hoặc có lá thư nào đến tay anh, Chiến Thắng Lợi liền khước từ, hoặc nhận rồi đốt đi ngay.
Có một lần lá thư của Cam đã đến tay Chiến Thắng Lợi. Đó là lần Cam là đại biểu phụ nữ của Liên khu Ba lên Việt Bắc họp Hội nghị động viên Phụ nữ Toàn quốc. Mười hai ngày đi đường, ba ngày họp và ngần ấy ngày về, nhưng Cam dành hầu hết thời gian chỉ để tim kiếm Khôi. Ngày cuối cùng rời Việt Bắc, Cam viết hú hoạ một lá thư, gửi trực tiếp một người ở cơ quan dân vận đưa đến tận nơi Lợi ở. Sau hàng chục lá thư bặt vô âm tín, sau hàng năm trời tìm kiếm, nàng đã kiệt sức mỏi mòn. May mà nàng không phát điên lên. May mà nàng đã rèn được sự vô cảm. Thư của nàng viết vậy. Nàng nguyền rủa Khôi là kẻ hèn nhát, kẻ không tim. Và nàng tuyên bố: Từ nay, với nàng, Nguyễn Kỳ Khôi đã chết.
Nếu Chiến Thắng Lợi phúc đáp lá thư đó, có lẽ Cam sẽ tha thứ. Bởi vì tận trong sâu thẳm cõi lòng, nàng vẫn yêu anh. Nhưng Lợi đã im lặng, đã cho bức thư của Cam và mối tình của nàng đi tầu suốt. Dào ôi, ôm rơm rặm bụng. Nuối tiếc nhớ nhung chỉ là tình cảm tiểu tư sản. Hãy vứt tất cả vào sọt rác.
- Đúng là chị Cam đã gửi bài thơ này của em cho anh phải không? - Vỹ hỏi gừng mấy lần. Vỹ nhìn anh thăm dò rồi chen một câu tiếng Pháp "II me semble que lle t aime?"(1)
Chiến Thắng Lợi lắc đầu, chối đây đẩy:
- Non, je ne la connais pas(2). Anh đã nói rồi. Anh không quen ai tên là Cam. Có một sự lầm lẫn nào đó rồi. Mà này, từ nay đừng gọi anh là Nguyễn Kỳ Khôi nữa. Anh được tổ chức đặt tên mới là Chiến Thắng Lợi. Em ghi nhớ nhé: Chiến Thắng Lợi.
- Ôi tuyệt vời! Có thật thế không? Một cái tên cách mạng. Thượng cấp quí và tin dùng anh lắm nên mới được đặt tên này đó.
- Quả là một ân sủng. Ngày xưa, phải các công thần tin cẩn mới được nhà vua đặc ân cho mang quốc tính. Ví như Ngô Tuấn được vua Lý cho mang tên Lý Thường Kiệt. Nguyễn Trai được Lê Lợi cho mang tẽn Lê Trai. Tên Chiến Thắng Lợi cũng có thể coi là một quốc tính đó.
- Anh ơi, em lên Việt Bắc, anh nói với thượng cấp đặt cho em là Chiến Thành Công nhé. Anh Chiến Thắng Lợi thì em phải Chiến Thành Công. Tuyệt vời quá phải không?
- Anh sẽ cố gắng - Chiến Thắng Lợi gật đầu lấy lệ, rồi nhắc lại - Em nhớ đấy. Hãy gọi anh là Chiến Thắng Lợi hay anh Lợi. Chứ không phải Kỳ Khôi. Có lẽ vì anh thay họ tên, nên rất nhiều thư từ gần đây không nhận được Như chợt nhớ ra, Khôi, nắm tay Vỹ - Mà này, gặp chị Cam không được nói chuyện anh đổi tên đấy nhé.
Vy thấy anh trai mình có điều gì đó khó hiểu.
- Sao anh bảo không quen biết chị Cam?
- Không, không… Anh không quen biết thật mà - Chiến Thắng Lợi biết mình vừa lỡ lời, vội chữa - Rất có thể có người đàn bà do địch gài vào để dò la tin tức về anh. Nói chung em không nên nói về anh với ai. Ngay cả chuyến về thăm nhà của anh lần này, em phải hết sức giữ bí mật.
- Anh đừng nghĩ sai về chị Cam. Em tin chắc chị là người của Việt Minh. Một cán bộ cỡ lãnh đạo cao chứ không phải thường đâu nhé. Có thể bài thơ của em in là do chị chép gửi cho tạp chí Bông Lúa.
- Thôi, quên chuyện chị Cam của em đi - Lợi muốn lái câu chuyện - Đợt về này anh mừng là thầy đã giác ngộ, hợp tác với Việt Minh, nhưng anh lại lo vì thầy tỏ ra thân thiện quá với địch…
- Nhiều người bảo, nếu thầy không đứng ra nhận chân lý trưởng thì khối anh chị du kích làng mình bị chặt đầu rồi.
- Chúng có hạch sách gì thầy về chuyện anh không?
- Chiều hôm qua, tên đồn trưởng Trương Phiên bảo thầy: "Ông nên gọi thằng con ông về chiêu hồi. Nó sẽ được khoan hồng. Tôi xin lấy tư cách bạn ông và danh dự quân nhân để bảo lãnh. Bằng không, sắp tới nước mẹ Đại Pháp sẽ làm sạch cô Việt Bắc, Tây Bắc. Con trai ông sẽ đi ngủ với giun…"
- Đấy là những lời của kẻ giãy chết. Em đừng tin luận điệu của địch. Cứ đà này, kháng chiến sắp thành công rồi.
Nhân nói đến chiến cục, Lợi hào hứng giảng giải cho Vỹ nghe về chiến lược cầm cự, phòng ngự, phản công của Việt Minh, về những chiến thắng vang dội của bộ đội Cụ Hồ trên khắp các mặt trận trong cả nước, đặc biệt là những chiến thắng có ý nghĩa chiến lược trên chiến trường Bắc Bộ.
- Anh muốn cho em biết một tin tuyệt mật - Lợi kéo Vỹ lại gần - Sau khi bị thua liểng xiểng khắp mặt trận Biên giới và Hoà Bình, danh tướng số một của nước Pháp Delattre de Tassigny được điều sang Đông Dương làm Tổng chỉ huy kiêm Cao uỷ, hòng xoay chuyển tình thế. Nhưng rồi Delattre cũng thất bại, phải thay bằng tướng Salan. Salan đại bại trên khắp các mặt trận. Nghe đâu tướng Navarre sắp được điều sang làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh… Rất có thể xảy ra cuộc quyết chiến chiến lược giữa Pháp và ta… Đoàn công tác bọn anh về đồng bằng đợt này là để huy động sức người sức của cho chiến trường Tây Bắc sắp tới đó…
Những điều Lợi nói càng củng cố thêm quyết tâm của Vỹ:
- Em đã quyết rồi. Mặc thầy u. Em không ra Hà Nội học lấy bằng tú tài đâu. Anh cho em lên Việt Bắc với nhé.
- Có nên xin ý kiến thầy u không? - Lợi băn khoăn - Đọc bài thơ của em, anh thêm hiểu em hơn. Làm trai phải có lý tưởng sống. Không thể cam chịu làm dân một nước nô lệ. Anh biết em đang đứng ở ngã ba đường. Em có biết câu thơ của Tố Hữu, nhà thơ lớn của cách mạng: "Bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước. Chọn một dòng hay để nước trôi" không?
- Em rất thích bài thơ này. Bọn học sinh chúng em nhiều đứa thuộc lòng. Học tú tài để làm gì? Làm ông ký, ông phán, hay thông ngôn thì cũng là làm tay sai cho Pháp, góp phần giết hại đồng bào mình. Không, em không thế trở thành kè bán nước hại dân. Đến như thầy, vốn an bần lạc đạo, muốn mũ ni che tai để yên thân, nhưng ròi vẫn phải nhúng tay vào chính trị. May mà thầy thức thời, đồng ý hợp tác với Việt Minh…
Hai anh em trò chuyện với nhau cả một ngày. Khi biết dự định của Chiến Thắng Lợi là sẽ giới thiệu Vỹ với báo Vệ Quốc hoặc báo Độc Lập ở chiến khu Việt Bắc thì Vỹ ôm choàng lấy cổ anh, sướng đến phát điên lên. Họ quyết định: Sẽ bí mật trốn khỏi nhà, lên chiến khu Việt Bắc, không để ông bà Lý Phúc biết.
Trước giờ lên đường, Vỹ viết một lá thư để lại:
"Kính lạy thầy u,
Con và anh Khôi phải trốn ra đi, bởi không muốn nhìn thấy cảnh thầy u, cảnh các em và bà nồi rơi lệ nhớ thương. Nói vậy tức là chúng con hoàn toàn toàn thầy u sẽ đồng tình với cuộc ra đi vì nghĩa lớn này. Tổ Quốc lâm nguy, thất phu hữu trách. Lời dạy của thầy chúng con luôn ghi tạc. Thầy u hãy cho chúng con cơ hội để tô chí làm trai, góp công sức phụng sự Tổ Quốc.
Chúng con ngàn lần xin thầy u tha tội và đại xá.
Hai con trai của thầy u.
Nguyễn Kỳ Khôi - Nguyễn Kỳ Vỹ"
Chú thích:
(1) Hình như chị ấy yêu anh? (tiếng Pháp)
(2) Không, anh không quen cô ấy (tiếng Pháp)
Powered by vBulletin® Version 4.2.2 Copyright © 2024 vBulletin Solutions, Inc. All rights reserved.