PDA

View Full Version : Nhân sinh phiêu bạt - Lưu Dung



phale
12-07-2009, 05:21 AM
Chiêm nghiệm về thân phận con người: Sự sống và cái chết



Vì sao phải đi
Người chết không tự rời bỏ chúng ta, người thực sự rời bỏ chúng ta có khi lại là người sống!



Lúc về Đài Loan, tôi gặp một cảnh tượng khó quên ở sân bay Kenedy.

Một cậu bé chừng bốn – năm tuổi thấy mẹ lên máy bay thì khóc váng. Bị người lớn đe nẹt, cậu bé kêu la vùng vẫy, đến khi cậu bị kéo ra khỏi phòng đợi, tôi vẫn còn nghe tiếng nức nở: “Mẹ đi rồi! Vì sao mẹ phải đi?”

Chuyện đó làm tôi nhớ một cảnh tượng khác. Người mẹ trẻ lìa đời nằm yên bình trên giường, khi người thân khóc ròng đưa đứa con côi ra ngoài, đứa con không khóc mà lại thắc mắc: “Mẹ vẫn nằm đấy, vì sao chúng ta phải đi?”

Cậu bé trước chỉ chia tay mẹ lên máy bay, cậu bé sau là vĩnh biệt mẹ, vì sao cậu bé ở sân bay lại cảm thấy đau khổ bội phần đến vậy?

Một lần, tôi kể hai chuyện trên cho một đứa trẻ cũng chừng bốn – năm tuổi, rồi hỏi cảm tưởng của đứa be.

Đứa trẻ trả lời không chút do dự: “Tất nhiên là mẹ đi cháu mới buồn khóc, vì mẹ tự bỏ cháu đi, không chơi với cháu nữa! Còn mẹ chết không phải là tự mẹ đi mất, mẹ không bỏ cháu, chỉ là chết!”

Nghe đứa trẻ nói vậy, bạn có bực không? Nhưng nghĩ kỹ, đứa trẻ đó nào có gì sai?

Có khi người thân mất đi lại không đau đớn bằng người thân bỏ đi. Đúng như đứa trẻ mồ côi mẹ nói: “Mẹ còn nằm đó, vì sao chúng ta phải đi?” Người chết không tự rời bỏ chúng ta, người thực sự rời bỏ chúng ta có khi lại là người sống!

phale
12-07-2009, 05:24 AM
Đường dây sống chết
Tôi lại càng tưởng tượng, nếu bưu điện đồng ý, không khéo một ngày kia nhập mộ, sẽ thấy chung quanh mình bao đường dây như ở trong một thành phố nhỏ. Và trong đêm tối, nhất định bên mình không chỉ có tiếng côn trùng rền rĩ.



Mua một máy điện thoại ghi âm, không chỉ ghi âm được, mà còn có thể đặt chế độ tự động nối máy. Điện thoại reo, không cần nhấc máy, vẫn có thể nói chuyện.

Vì thế, đang ở trong phòng tắm, có người gọi đến cũng không cần mặc đồ chạy ra; đang treo tranh, không cần bỏ khung xuống, chỉ cần nói vọng vào để tiếp điện.

Có việc ra ngoài lại càng yên tâm. Nhờ đặt những chức năng tự nối máy mà có thể biết chuyện trong nhà: con gái có khóc không, con trai có đang xem ti vi không, điều hòa đã tắt chưa, thậm chí nghe ngóng xem nhà có bị trộm vào lục đồ hay không?

Tuy nhiên, đặt chức năng tự nối máy như vậy sẽ không còn cơ hội từ chối cuộc gọi. Thậm chí đang đêm có điện gọi đến, nếu không tỉnh, người ta có thể nghe thấy tiếng ngáy ầm ầm của gia chủ.

Nhưng nếu chủ nhân đang ngủ mà đột ngột qua đời thì sao, điện thoại vẫn cứ thông!

Vì thế tôi tưởng tượng, khi chôn cất người thân yêu, nếu chúng ta đặt điện thoại có chức năng tự nối máy bên tai họ, đến lúc nhớ họ, chỉ cần bấm số là có thể bày tỏ nỗi niềm! Tất nhiên ở đầu dây bên kia chỉ có sự im lặng, một số người có thể tưởng tượng ra thi thể mà sợ hãi. Song cứ nghĩ người thân yêu không thể sống mãi, liệu ta có còn nỗi sợ đó?

Tôi lại tưởng tượng, nếu bưu điện đồng ý, không khéo một ngày kia nhập mộ, sẽ thấy chung quanh mình bao đường dây như ở trong một thành phố nhỏ. Và trong đêm tối nhất định bên mình không chỉ có tiếng côn trùng rền rĩ.

Reng… reng… nghe mỗi tiếng chuông reo là biết có một người còn được yêu thương.

Lắng lòng nghe, đầu dây bên kia là một người đang nhớ tiếc, đang bày tỏ nỗi niềm…

phale
12-07-2009, 05:30 AM
Gượng không chết
Một phóng viên trở về từ chiến trường Việt Nam, gặp tôi ở phòng dựng, liền đưa cho tôi một cuốn băng quay cảnh những người chạy trốn khỏi bom đạn, và từ xa có nhiều gục ngã.



Trong trận động đất lớn ở Armenia, một kỳ tích đã xảy ra tại thủ Erevan: người ta cứu được hai mẹ con bị vùi trong đống đổ nát suốt tám ngày. Tám ngày không đồ ăn, không nước uống, lại thiếu dưỡng khí, cậu bé sống được là nhờ vòng tay che chở của người mẹ. Hơn nữa, người mẹ đã trích máu đầu ngón tay ra cho đứa con ngậm.

Đọc tin đó tôi rưng rưng nước mắt, cảnh tượng người mẹ ôm con lẩn quất trong đầu. Cứ nhắm mắt lại, hình ảnh người mẹ dùng cả thân mình để che chở, trông đợi, lại hiện ra.

Cảnh tượng đó khiến tôi nhớ lại bài báo đọc từ nhiều năm trước.

Các nhà khảo cổ đã khai quật trong lớp chôn vùi của thảm họa Pompei một tượng hóa thạch người mẹ ôm con.

Cảnh tượng thảm họa núi lửa Pompei một nghìn chín trăm bảy mươi năm trước như hiện ra mồn một. Trong chớp mắt, dòng nham thạch bao trùm những người không kịp chạy trốn. Một người mẹ thấy không còn đường thoát, đã dùng lưng và đầu mình để che kín đứa con, chống lại dòng nham thạch mà bà biết rõ không thể chống lại được.
Và người mẹ đã đông cứng trong nham thạch.

Tượng nham thạch đó là gì? Là tình yêu vĩ đại, vĩnh hằng của người mẹ khiến người đời nghìn năm sau còn thương tâm…

Sáng tạo vĩ đại nhất của Thượng Đế không phải là muôn loài, không phải là vũ trụ, mà là tình yêu! Dù không có logic nào cả, tôi vẫn khăng khăng cho rằng, điều Thượng Đế sáng tạo ra đầu tiên chính là tình yêu, mà tình yêu cao cả nhất chính là Tình mẹ!

Mà đâu phải chỉ con người mới có tình mẫu tử?!

Có lần xem tạp chí Nature, thấy trăm ngàn con chim cánh cụt đứng hướng về một phía. Lúc đầu tôi không hiểu vì sao chúng phải đứng chỉnh tề như vậy, quan sát kỹ, mới thấy trước mỗi chim cánh cụt lớn đều có một chim cánh cụt con với bộ lông mượt như nhung.

Hóa ra đó là những bà mẹ đang che chở những đứa con: bụng chim cánh cụt quá tròn, không phủ kín con được nên chúng phải đứng sát nhau để chắn gió lạnh cho con.

Thật vĩ đại làm sao, những bà mẹ chim cánh cụt!

Một lần khác đọc sách về loài nhện xanh, nhện mẹ đan tấm lưới lớn, đẻ trứng, đợi trứng nở rồi nuôi nấng hàng trăm đứa con. Sau đó từng con, từng con nhện theo dây tơ thả mình theo gió.

Tôi gấp sách lại, nghĩ, liệu nhện mẹ có cảm thấy một nỗi buồn lặng lẽ không?

Có lẽ, “sống” chính là tạo ra một sự sống khác? Chỉ cần thấy sự sống từ mình được kéo dài là cảm thầy hạnh phúc?

Không bao giờ tôi có thể quê giờ khắc con gái tôi ra đời tại một bệnh viện ở New York.

Cũng giống như bệnh viện ở Đài Loan, trẻ mới ra đời lập tức được đưa tới phòng sơ sinh, sau khi căt rốn thì đưa đến cho mẹ ôm ấp mấy phút.

Vợ tôi sau một hồi la hét, giãy giụa cuối cùng cũng sinh được, song sức lực đã cạn kiệt. Nào hay khi con được đưa đến, mặt vợ tôi vẫn bợt vì mất máu nhưng mắt thì phát ra ánh sáng lấp lánh!

Đúng là ánh sáng! Một thứ ánh sáng hiền hòa mà cao quý phát ra từ đôi mắt còn ngấn lệ. Đúng là đổi nửa đời mình lấy một cuộc đòi nhỏ! Nhìn vợ ôm ấp con, tuy không phải là phụ nữ nhưng tôi cũng có thể cảm nhận niềm xúc động của vợ.

Con là cuộc sống nối dài của mẹ, cũng chính là cuộc sống của mẹ! Hãy để tôi kể một câu chuyện từ lâu đã không định kể, thậm chí còn muốn quên đi.

Một phóng viên trở về từ chiến trường Việt Nam, gặp tôi ở phòng dựng, liền đưa cho tôi một cuốn băng, vẻ xúc động.

Anh ta không nói gì, tua lại đoạn băng, chỉ cho tôi hình ảnh một người:

“Anh xem! Tất cả cùng gục ngã, chỉ có một người ngã rất chậm, lại không ngã sấp m2 chầm chậm khụy xuống…”

Tôi không hiểu, sau đó anh ta mới kể:

“Lúc tan bom đạn, tôi tới gần, nhận ra đó là một người mẹ trẻ đang ôm con. Bị trúng đạn, người mẹ sợ làm ngã con nên gục xuống chầm chậm. “Người mẹ đã gượng không chết!”

“Gượng không chết!”

Mỗi lần nhớ đến câu nó đó là hình ảnh từ xa một người đang gục ngã lại hiện ra, và tôi không ghìm được nước mắt….

yeu100C
12-07-2009, 08:26 AM
Những bài này hay thật. Cho nên nhiều khi hỏi sao những gì đã mất đi người ta lại tiếc như vậy còn những gì đang có lại dửng dưng coi như bình thường phải thế. Nếu ai không tiếc những điều đã mất trân trọng những điều bình thường người đó một là đại tài hai là đại ngốc. Người dửng dưng với tất cả là đại bịp không chắc cũng khùng khùng.
Thôi thì sống theo kiểu gượng chết vậy.

phale
13-07-2009, 05:17 AM
Cười cợt trước cái chết
Những người già gần tám, chín mươi tuổi thường hỏi thăm tin tức người này người kia.



“Ồ, ông ta vẫn còn sống kia à, vậy mà lâu lắm không trông thấy!?”

Ông ta đáng phải chết lâu rồi! Sao đến giờ vẫn lần khân?”

“Chết” rõ ràng là một từ kiêng ky, song ới họ, nó dường như không gợi lên chút xúc động nào. Những ông bà già bên quan tài đưa bạn về cõi tây phương vẫn nói cười rôm rả, tuyệt không chút bi thương. Nó giống như bữa tiệc tiễn người đi “tiền trạm”.

Thậm chí mấy người già sau khi nhìn người đã khuất lần cuối còn cười: “Tô son, dồi phấn, còn đẹp hơn cả lúc sống!”

“Chiếc áo thọ của bà ta là đi may cùng với tôi đấy! Đẹp lắm, mặc vào rất “oách”!”.

Liệu có thật những người già đó không chút thương cảm cho người đã khuất? Đến tuổi của họ, bạn quy tiên nhiều hơn người ở lại nên họ thấy cái chết cũng thường? Họ thấy mình đã thượng thọ, đã sống đủ rồi nên xử thế ung dung? Hay họ nghĩ, người già lắm bệnh, sống cũng không có gì hay, nên chẳng thà “cưỡi hạc quy tiên”?

Mà những đám tang có con cháy đeo khăn đỏ thiếp vàng còn được gọi là “hỉ táng”. Gọi là “hỉ”, có phải thầm cảm ơn trời ban thượng thọ cho người đã khuất? Hay thầm mừng cho con cháu cất được gánh nặng? Dù sao cũng là cái chết, lẽ nào vì người chết cao tuổi mà người sống không đau lòng?

Hóa ra như một vị “hiếu nam” đã nói ra lý do:

“Nghĩ xem! Cụ nhà hơn chín mươi thì chết, còn tôi cũng đã bảy mươi! Bảy mươi tuổi không biết chầu trời ngày nào, chết cũng chẳng sợ. Lại nói mẹ đi được trước con, con nên mừng mới phải. Nếu tôi đi trước, để bà cụ chín mươi phải chôn cất thì thật đau buồn!”

Lại nghe một ông già cười ha ha, nói:

“Chết đối với thanh niên mới đáng sợ! Hồi hơn ba mươi tuổi, thấy có bạn chết thì rất sợ, cũng rất buồn. Sau này ông bà cha mẹ, rồi đám bạn bè lần lượt ra đi, lòng cũng tê liệt! Vì thế trời đã có ý cho chúng ta từ cái chết của người thân, bạn bè dần dần nhận thức cái chết, xem nó là bình thường!”

Còn nhớ một câu chuyện của phương Tây:

Mấy ông già chung tiền mua một chai rượu cực quý, hẹn nhau để người chết cuối cùng sẽ được hưởng.

Các ông lần lượt ra đi, bình rượu quý đến tay người cuối cùng. Khi mở chai rượu, ông lão mới nhận ra chai chỉ đựng toàn nước lã, trong hộp còn gắn mảnh giấy:

“Xin lỗi vì đã uống trộm rượu! Nhưng ông nên đồng tình với bọn tôi, vì bọn tôi tự thấy không thể thọ hơn ông! Hơn nữa chỉ còn mình ông, uống rượu một mình thì nghĩa gì. Chẳng thà ông hãy xuống đây nhập bọn cùng uống rượu!”

Chết, hóa ra lại phóng khoáng như thế, trong đó còn ẩn chứa một nụ cười mỉm.

phale
14-07-2009, 11:41 AM
Cười cợt trước cái chết
Những người già gần tám, chín mươi tuổi thường hỏi thăm tin tức người này người kia.



“Ồ, ông ta vẫn còn sống kia à, vậy mà lâu lắm không trông thấy!?”

Ông ta đáng phải chết lâu rồi! Sao đến giờ vẫn lần khân?”

“Chết” rõ ràng là một từ kiêng ky, song ới họ, nó dường như không gợi lên chút xúc động nào. Những ông bà già bên quan tài đưa bạn về cõi tây phương vẫn nói cười rôm rả, tuyệt không chút bi thương. Nó giống như bữa tiệc tiễn người đi “tiền trạm”.

Thậm chị mấy người già sau khi nhìn người đã khuất lần cuối còn cười: “Tô son, dồi phấn, còn đẹp hơn cả lúc sống!”

“chiếc áo thọ của bà ta là đi may cùng với tôi đấy! Đẹp lắm, mặc vào rất “oách”!”.

Liệu có thật những người già đó không chút thương cảm cho người đã khuất? Đến tuổi của họ, bạn quy tiên nhiều hơn người ở lại nên họ thấy cái chết cũng thường? Họ thấy mình đã thượng thọ, đã sống đủ rồi nên xử thế ung dung? Hay họ nghĩ, người già lắm bệnh, sống cũng không có gì hay, nên chẳng thà “cưỡi hạc quy tiên”?

Mà những đám tang có con cháy đeo khăn đỏ thiếp vàng còn được gọi là “hỉ táng”. Gọi là “hỉ”, có phải thầm cảm ơn trời ban thượng thọ cho người đã khuất? Hay thầm mừng cho con cháu cất được gánh nặng? Dù sao cũng là cái chết, lẽ nào vì người chết cao tuổi mà người sống không đau lòng?

Hóa ra như một vị “hiếu nam” đã nói ra lý do:

“Nghĩ xem! Cụ nhà hơn chín mươi thì chết, còn tôi cũng đã bảy mươi! Bảy mươi tuổi không biết chầu trời ngày nào, chết cũng chẳng sợ. Lại nói mẹ đi được trước con, con nên mừng mới phải. Nếu tôi đi trước, để bà cụ chín mươi phải chôn cất thì thật đau buồn!”

Lại nghe một ông già cười ha ha, nói:

“Chết đối với thanh niên mới đáng sợ! Hồi hơn ba mươi tuổi, thấy có bạn chết thì rất sợ, cũng rất buồn. Sau này ông bà cha mẹ, rồi đám bạn bè lần lượt ra đi, lòng cũng tê liệt! Vì thế trời đã có ý cho chúng ta từ cái chết của người thân, bạn bè dần dần nhận thức cái chết, xem nó là bình thường!”

Còn nhớ một câu chuyện của phương Tây:

Mấy ông già chung tiền mua một chai rượu cực quý, hẹn nhau để người chết cuối cùng sẽ được hưởng.

Các ông lần lượt ra đi, bình rượu quý đến tay người cuối cùng. Khi mở chai rượu, ông lão mới nhận ra chai chỉ đựng toàn nước lã, trong hộp còn gắn mảnh giấy:

“Xin lỗi vì đã uống trộm rượu! Nhưng ông nên đồng tình với bọn tôi, vì bọn tôi tự thấy không thể thọ hơn ông! Hơn nữa chỉ còn mình ông, uống rượu một mình thì nghĩa gì. Chẳng thà ông hãy xuống đây nhập bọn cùng uống rượu!”

Chết, hóa ra lại phóng khoáng như thế, trong đó còn ẩn chứa một nụ cười mỉm.

Hồi ức cận kề cái chết
“Không! Bởi tôi đã nhận bản án tử hình, không còn cảm thấy có lỗi với họ nữa! Những người tôi cảm thấy thực sự có lỗi là những người đã yêu thương tôi!”


Trong cuốn “Life after Life” của nhà tâm lý học Mỹ Raymond Moody kể lại hồi ức của những người từng cận kề cái chết, thậm chí bị coi là đã chết mà sống lại, những hồi ức đó đều có chung mấy đặc điểm:

Nghe thấy tiếng ong ù ù đặc biệt
Rơi xuyên qua một đường hầm tối đen.
Nhìn thấy phía xa một vầng sáng lạ kỳ.

Một đặc điểm khiến tôi nhớ nhất là những người cận kề cái chết thấy “những người quan trọng trong đời mình xuất hiện?!

Với một số người, sau khi rơi xuyên qua đường hầm, loại hồi ức đó mới bắt đầu xuất hiện; cũng có người dưới ánh sáng thần kỳ đã nhìn lại những sự kiện xảy ra trong đời mình một cách bàng quan.

Có rất nhiều người trước nguy hiểm, tự cho là mình tất sẽ chết thì hình ảnh người thân yêu vụt lóe qua trước mắt.

Tôi cũng đã tự mình trải qua chuyện như vậy. Hồi bé vô ý bị trượt xuống hố nước sâu, trong lúc giãy giụa, những hình ảnh như thế đã lướt nhanh qua não, đến nay vẫn còn nhớ rõ ràng.

Có thể vì thế mà tôi rất đồng ý với nghiên cứu của Raymond Moody, nó cũng khiến tôi càng hứng thú với những người đã trải nghiệm trạng thái cận kề cái chết.

Tôi đã hỏi một người lính già từng trải qua trận chiến sinh tử:

:Khi đánh giáp lá cà với quân địc, bác nghĩ gì?”

“Trong khoảnh khắc một sống một chết thì còn nghĩ gì? Người lính già đáp. Nhưng rồi ông lại nói: “Song không biết sao, khuôn mặt mẹ và vợ con lại bỗng nhiên thoáng hiện lên!”

Tôi càng chú ý tới cuộc trả lời phỏng vấn của một tử tù đã lên ghế điện rồi thì nhận được lệnh hoãn thi hành án:

“Tôi nhớ đến bạn gái và những người trong gia đình!”

“Anh có nhớ tới những nạn nhân bị anh giết chết không, có thể họ đợi anh ở thế giới bên kia để báo thù?”

“Không! Bởi tôi đã nhận bản án tử hình, không còn cảm thấy có lỗi với họ nữa! Những người tôi cảm thấy thật sự có lỗi là những người đã thương yêu tôi!’

Tôi nghĩ, đồng tử của người trước lúc chết thường giãn ra nên họ không thấy gì. Có lẽ đó là ý trời, để cho khuôn mặt những người túc trực bên người hấp hối không gây phiền nhiễu đến hồi ức của họ.

Tôi cũng nghĩ, những ai bên người hấp hối tự cho mình là người thân nhất, liệu có biết rằng, có khi hình ảnh lướt qua não người hấp hối lại là hình ảnh người khác, thậm chí là người mình không hề quen biết.

Rồi tôi còn nghĩ: với người tứ cố vô thân, hoặc kẻ óan ghét thế giới, hình ảnh xuất hiện trước khi chết liệu có phải chỉ một màu trắng? Cũng có lẽ xuất hiện hình bóng ai đó-một người lạ từng cho miếng ăn trong lúc đói, rồi vô tình nắm tay mà tạo niềm xúc động đặc biệt.

Còn đứa trẻ vừa sinh ra đã vội lìa bỏ thế giới thì hình ảnh hồi ức sẽ như thế nào?

Không có gì cả? Cũng có lẽ là một dòng nước xanh? Là tiếng tim đập của người mẹ? Hay vũ trụ ngọt ngào, êm đềm?

Vậy đó, đáng sợ có khi lại là sự thuần khiết, duy mĩ nhất chứ không phải là yêu ghét đan xen!?

phale
14-07-2009, 12:11 PM
Lời cuối
Có khi tàn nhẫn hơn, thần chết tới trước mặt, ra lệnh cho nạn nhân chủ động đón chờ lưỡi hái. Thần chết nói: “Đó là vận mệnh của ngươi!”



Từ khi máy bay được lắp “hộp đen”, chúng ta có thể nghe được bao nhiêu chuyện trước khi máy bay lâm nạn. Nếu như máy bay đột nhiên nổ, những cuộc đối thọai trong khoang lái trước đó rất đơn giản. Ngược lại, nếu như máy bay rơi từ từ, những lời cuối khoang lái khiến ta xúc động mạnh, bởi phi công không hề hoảng hốt mà họ lại bình tĩnh thuật lại tình huống. Những người đối mặt với cái chết mà vẫn bình thản đều gây cảm xúc bi tráng; trong cảm xúc bi tráng đó còn có một vẻ đẹp đau đớn.

Do chuyển hướng sai, một máy bay cất cánh từ sân bay Hoa Liên không lâu thì đâm vào núi. Trước khi đâm vào núi mấy giây, cơ phó cảm thấy không ổn bèn bảo cơ trưởng: Cơ trưởng! Sang trái? Sang trái?” Cơ trưởng đáp ngắn gọn: “Đúng rồi!”

Một máy bay của công ty hàng không Florida cất cánh từ Washington do bị băng đóng quá nặng trên cánh nên lên cao được một lúc thì lao xuống. Khi đó cơ phó nói: “Chúng ta đang lao xuống!” Cơ trưởng đáp ngắn gọn: “Tôi biết!”.

Trước lúc chết, giọng họ đều thật lạnh, đối thọai ngắn gọn một cách lạ thường, bởi thời khắc sống chết không để họ nói nhiều.

Song cũng có nhiều câu nói trước lúc chết rất “đẹp. Ví như phi công lái chiếc máy bay chở khách nhỏ của Đức gặp tai nạn mấy năm trước đã nói một câu: “Thế giới đáng yêu! Hẹn gặp lại!”. Viên phi công đó đã cố lái máy bay tránh đâm xuống khu đông dân cư.

Một máy bay bay từ Osaka tới Tokyo, đang bay thì thân máy bay bị rời ra, một ông lão Nhật Bản đã tranh thủ mấy phút cuối cùng để ghi lại trong sổ tay những lời yêu thương gởi gia đình.

Dường như khi đối mặt vớ từ thần, ai cũng trở thành nhà triết học về sinh mệnh. Bởi bao kế họach cuộc đời phút chốc tan biến, họ dùng chút thời gian ngắn ngủi để nghĩ về những gì quý giá nhất, hệt như đứa trẻ ôm chặt món đồ chơi quý giá nhất của mình.

Có khi tàn nhẫn hơn, thần chết tới trước mặt, ra lệnh cho nạn nhân chủ động đón chờ lưỡi hái. Thần chết nói:

“Đó là vận mệnh của ngươi!”

Trong các trại tập trung của Phát-xít thời chiến tranh thế giới lần thứ hai, những người Do Thái biết rõ mình sẽ bị giết. Họ viết lại những lời cuối, sau đó xếp thành hàng ngũ, yên lặng bước vào phòng hơi ngạt.

Một bé gái ở Hiroshima viết sau vụ nổ bom nguyên tử:

“Em biết mình uống nước này sẽ chết, nhưng em khát quá!” Sau đó cô bé đã uống no thứ nước nhiễm phóng xạ và lặng lẽ chết.

Xúc động nhất là câu chuyện tôi đọc được trên báo về một thiếu nữ bị bọn Khmer đỏ xử tử. Lúc hành quyết, cô xin một ân huệ cuối cùng:

Cô chầm chậm cúi xuống bãi cỏ dưới chân, hái lên một bông hoa nhỏ nói: “Nó rất nhỏ bé, nhưng tôi yêu nó!” Rồi cô ôm chặt bông hoa trước ngực, nhắm mắt lại…

phale
14-07-2009, 01:45 PM
Hội chứng phong thủy
Còn nếu vận khí tốt thì có ngăn cũng không được, anh không muốn làm quan, người ta cũng tôn anh làm quan


Không biết vì sao tiền của người Hoa Mỹ đều chảy về Đài Loan, trong khi bất động sản ở NewYork gần 1 năm nay rất “lạnh”. Kỳ thực không phải vì người Hoa không muốn mua nhà ở New York, mà vì họ mãi đắn đo, cân nhắc. Cũng như chọn táo trên sạp, lúc đông người thì mua tranh bán cướp, lúc vắng lại gảy gót từng quả. Tranh thủ giá cả đang hạ, bạn bè tôi đôn đáo khắp nơi tìm nhà, nhưng dù là đã đến xem mười mấy nhà mà vẫn không xong.

Một người bạn kinh doanh địa ốc nói với tôi: “Hiện bán nhà rất khó, bán cho người Hoa càng khó hơn. Họ xem mười mấy ngôi nhà, đã tìm được nhà vừa ý, kiến trúc đẹp, giá cả hợp lý. Đến khi làm hợp đồng, còn thêm một điều kiện: “nếu thầy phong thủy thấy không hợp thì hủy hợp đồng!”

Lúc đầu tôi không tin, cho đến Hội Hoa Xuân gần đây, được tiếp xúc với nhiều bạn bè, tôi mới thấy ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa thật thâm căn cố đế. Nhiều người ở Mỹ đã mấy chục năm, ăn đồ tây; nói tiếng Mỹ; con cái họ học ABC, nửa chữ tượng hình cũng không biết; vợ chồng thôi đặt báo tiếng Trung mà chuyển sang New York Times… Song duy còn một thứ rất “trung quốc”: xem phong thủy.

Bác sĩ của gia đình tôi mới đây mua một căn nhà cả triệu đô. Vậy mà đến nhà tôi, vừa tự khen nhà mình rộng rãi đã lại than thở: “Thực sự tôi thích ngôi nhà đối diện, giá cả cũng vậy, nhưng tôi không mua.”

“Có người đặt cọc trước rồi à?’

Vị bác sĩ cười: “Không phải! Chỉ vì đằng sau nhà có bể bơi. Theo phong thủy thì đằng sau nhà không nên có hồ, nếu không thì sẽ là “bối thủy nhất chiến” (Sựa sông (nước) mà đánh một trận quyết tử), rất nguy hiểm!”

Cách đây không lâu, thầy giáo Trung Văn của con tôi muốn bán nhà, có nhờ tôi tìm khách. Nào ngờ người môi giới bất động sản vừa đến đã nói ngay, bán thì bán được, nhưng e không bán được cho người Hoa vì trước nhà có một khỏang trống quá rộng.

Tôi nói: “Vậy chẳng hợp với phong thủy sao, “tả thanh long, hữu bạch hổ, tiền châu tước, hậu huyền võ”. Mặt tiền không phải là “châu tước” đó sao?”

Anh nhầm rồi! Khỏang trống phía trước quá rộng, cỏ lại mọc cao là điều người Trung Quốc tối kỵ, vì họ sợ “giặc cỏ”!

Mấy ngày sau một người bạn lại kể, bố của ông là dân di cư sang Mỹ đang tìm mua nhà. Ông bố đã tìm được một căn hộ chung cư hướng Nam, không khí thóang mát, giá cả cũng vừa phải. Đang làm hợp đồng, ông bố bỗng nhận thấy cửa chính tòa nhà nhìn thẳng ra con đường lớn, gọi là “nhất tiễn xuyên tâm” (một mũi tên xuyên qua tim), thế là nhất quyết bỏ, hiện lại tìm nhà khắp nơi”

Tôi nói: Thời xưa đi xe ngựa, phanh không dễ nên nếu phía trước có nhà, không kịp vòng thì dễ đâm vào làm chết chủ nhà. Còn đường sá ngày nay rất rộng, xe cộ hiện đại, lại thêm có đèn xanh đèn đỏ thì lo gì? Cứ cho là xe không kịp phanh, thì phòng của cụ cũng ở tầng 10, lẽ nào xe cộ biết trèo cầu thang để đâm vào. Mà nếu nói như vậy, Nhà Trắng cũng không thể ở được, chẳng phải Nhà Trắng trông thẳng ra đường lớn sao?
Ngay cà Tử cấm thành, Phủ Tổng Thống Đài Loan cũng vậy. Chẳng phải đường Tính Nghĩa và đường Nhân Ái đâm thẳng vào Phủ Tổng thống sao?”

“Đó là Phủ Tổng thống và Hòang cung!” Bạn tôi nói với vẻ thần bí: “Cung điện, Phủ Tổng thống, nha môn, sở cảnh sát đều là những nơi vượng khí nên đương nhiên có thể đối mặt với đường cái được! Còn chúng ta là tiểu dân khí nhược, ngay đến cổng chính cũng không được đối diện với cổng nhà khác. Vì thế phải treo gương để ngăn tà khí!”

“Ngăn tà khí?”

“Đúng! Ngăn tà khí từ nhà đối diện!”

Hôm trước tôi đem chuyện của bạn kể với mấy người hàng xóm, nào ngờ họ vỗ tay, nói” “Cực đúng! Mà anh nên biết, không chỉ để ý bên ngòai, mà trong nhà cũng cần cẩn trọng. Phòng ốc không thể không vuông vắn, cửa giả không thể lơ mơ. Mua nhà kiểu thực dân (colonial) càng phải cẩn thận, bởi vào cửa thường trông thấy ngay cầu thang, tức là “phạm xung”, không thể mua được. Hay vừa mở cửa đã thấy lò sưởi cũng không được, vì hỏa khí quá thịnh, tất phải treo một bồn cây bên trên. Nói về hình dáng phòng, tuyệt đối không được mua nhà hình “dao”. Cũng không được ngủ dưới xà nhà…”

“Nhưng phòng hình chữ nhật cũng giống hình cái dao đấy thôi!” Tôi nói. “Còn nữa, giờ đây trần nhà đều trát kín, làm sao biết xà nhà ở đâu?”

“Trèo lên mái mà xem, nếu không thì lấy búa gõ nhẹ lên trần, nghe âm thanh là biết chỗ nào có xà!”

“Nói như anh thì mua nhà rất khó. Nhà kiểu Mỹ rất nhiều xà, phòng nào cũng không vuông vắn, lại vừa bước vào cửa đã thấy cầu thang!” Tôi nói: “Hình như ở Nhà Trắng cũng bước vào cửa là thấy cầu thang!”

“Tôi chẳng nói rồi sao? Mả người ta táng hàm rồng, chúng ta không thể theo được!”

“Nói như vậy, chúng ta không vào Nhà Trắng được, thậm chí không phát tài đều là do phong thủy mồ mả ông cha không tốt?”

“Đúng rồi! Lỗi không phải do ta, mà do âm phần tổ tiên không tốt! Còn nếu vận khí tốt thì có ngăn cũng không được, anh không muốn làm quan, người ta cũng tôn anh lên. Thế mới gọi là “ba đời mới thấy phát”. Muốn cháu chắt anh vào được “Ivy League” thì bây giờ anh phải xem mồ mả trước đi!”

Buổi tối tôi về bảo với con: “Con hãy bắc thang lên tầng áp mái (attic) xem trên giường ngủ nhà ta có xà không?” Rồi quay sang bảo với vợ” “Chúng ta nên nhân giá nhà rẻ đi mua lấy mấy cái. Các bạn hiểu phong thủy của anh nói nên tìm nhà sau cao trước thấp, tốt nhất sau nhà là núi, để nếu bị thổ phỉ tấn công thì còn chạy được lên núi. Đó là kinh nghiệm đương đầu với vô số tai nạn, giặc giã, không thể mơ hồ!”

Ghi chú: Đây chỉ là bài viết vui, nhưng tôi hy vọng nêu lên được một vấn đề: Chỉ có một dân tộc chịu nhiều khổ nạn mới phát triển nên một thuật phong thủy khốn khổ. Bởi người xưa sống trong hòan cảnh thiếu cảm giác an tòan, thậm chí không tự tin vào bản thân, lại thêm trồng trọt chưa chắc đã được gặt hái nên gặp thành công thì không dám cho là nhờ nỗ lực của bản thân. Vì vậy, người xưa đã trút gánh nặng lẽ ra mình phải đảm nhiệm cho phong thủy thần bí, cho số mệnh! Quái lạ là căn bệnh của bao nhiêu thế kỷ trước vẫn kéo dài đến tận hôm nay.

Xin đừng xem nhẹ căn bệnh phong thủy, ảnh hưởng của nó vẫn rất sâu xa!

phale
26-07-2009, 01:07 PM
Lấy vợ trẻ sống lâu
Thật nực cười! Thử hỏi nhóm nghiên cứu xem các cụ nuôi chó thì có thọ hơn không? Chẳng lẽ lại nói, cụ nào nuôi chó trẻ thì sống lâu hơn?

Năm ngoái, một nhóm nghiên cứu của Mỹ, không biết có phải được ăn gan hùm không, mà dám đưa ra một kết quả thống kê:

- Đàn ông lấy vợ trẻ thọ lâu hơn!

Tất nhiên nghiên cứu đã gâp nên làn sóng phản đối, đặc biệt từ các hội phụ nữ:

- Đó là “chủ nghĩa sô-vanh nam giới”!

- Đàn ông muốn bỏ người vợ tào khang để lấy gái trẻ sẽ lợi dụng thống kê này.

- Chồng tôi cả đời không đọc báo, bỗng nhiên dương dương đắc ý cho tôi xem tin này, vậy là có ý gì?

Vấn đề nghiên cứu trên không phải không nghiêm túc, các kết luận đều dựa trên con số cụ thể. Vì vậy xuất hiện các giải thích khác:

- Vì chỉ có những ông đặc biệt khỏe mạnh mới dám lấy vợ trẻ, không phải họ lấy vợ trẻ mà khỏe ra. Nghiên cứu đã lầm lẫn giữa “nhân” và “quả”.

- Cũng như giáo sư thường xuyên tiếp xúc với sinh viên nên “lây” lối ứng xử trẻ trung, chồng lấy vợ trẻ cũng như vậy

Còn có người đưa ra dẫn chứng khác:

- Thật nực cười! Thử hỏi nhóm nghiên cứu xem các cụ nuôi chó thì có thọ hơn không? Bởi nuôi chó thì ngày nào cũng phải dắt chó đi dạo nên được vận động và hít thở không khí trong lành, tốt hơn hẳn người suốt ngày xem ti vi, tích cholesterol. Lúc đó chẳng lẽ lại nói cụ nào nuôi chó trẻ thì sống lâu hơn?

Tóm lại là sau khi công bố kết quả nghiên cứu, tranh cãi nổi lên như ong. Nhiều vị học trò của tôi ở tuổi trung niên cứ bàn luận mãi. Chỉ cần ông nào lộ ra chút thích thú là các bà xúm vào đấu tố. Ngay như tôi làm giáo sư cũng không dám đụng đến chuyện họa sĩ này có “thiếp”, họa sĩ kia có “bồ”, sợ làm các bà nổi giận.
Vừa hay, qua cuộc thăm nhà mấy họa sĩ lớn gần đây, tôi cảm nhận được vài điều.

Mùa thu năm ngoái, tôi đến thăm nhà một danh họa, không may ông đi vắng, chỉ có vợ ở nhà. Bà vợ đặc biệt giới thiệu với tôi những tác phẩm đắt giá với chồng, trong đó có một bức rất nhỏ mà giá hơn chục nghìn đô-la. Tuy nhiên nhà vị danh họa này rất chật chội, phòng đã không nhiều mà phòng nào trông cũng như nhà trọ, chỗ này một đống, chỗ kia một đống. Ngay như phòng vẽ, bàn trong phòng không những bé mà còn vương vãi đầy đầu mẩu thuốc lá. Bụi bặm thì không sao tả xiết, tôi vừa vào đã hắt hơi năm sáu cái; vì bệnh hen nên tôi phải vội ra ngoài.

Tiếp đó, tôi đến nhà một họa sĩ nổi tiếng khác, đón tôi là bà vợ trẻ hơn đến ba mươi tuổi của ông. Vào nhà, tôi thấy bà vợ chạy tới chạy lui lau dọn nhà cửa; đồ điện trong nhà đều rất hiện đại. Mọi việc đóng khung, bọc tranh, thương lượng giá cả, tổ chức triển lãm, tuyên truyền đều do bà đảm nhiệm. Nhà của họa sĩ này sáng sủa, bước vào thấy phấn chấn tinh thần, khác hẳn nhà vị danh họa trên. Nói có vẻ khó nghe, bước vào nhà vị danh họa trên còn có cảm giác xúi quẩy.

Vị danh họa trên qua đời cách đây không lâu. Thương tiếc tài năng của ông tôi không khỏi không nghĩ:

Nếu bà vợ ông được như cô họa sĩ kia, biết tạo môi trường sống trong lành, có lối sống tích cực thì biết đâu ông chẳng thọ thêm? Thậm chí, nếu vợ danh họa biết cách quảng bá tài năng của chồng thì thành tựu của ông còn cao hơn nữa. Ông họa sĩ sau tuổi nhiều hơn ông họa sĩ trước, nhưng nhờ được bà vợ trẻ chèo kéo, đã chẳng đi khắp nơi sáng tác hay sao?

Tôi nghĩ đi nghĩ lại, một số cụ có vợ trẻ mà đúng là thọ thêm thì không hề vì “tiếp xúc cơ thể” mà do được chăm sóc tốt hơn.

Nếu đúng vậy thì không nên để ý chuyện vợ già vợ trẻ, mà nên cùng vợ mình thảo luận:

- Liệu chúng ta có cần lối sống trẻ trung hơn không? Liệu có phải chúng ta vì tự cho mình là già mà quá khép kín? Nếu như không tự mình làm được, liệu có nên nhờ người tới dọn dẹp nhà cửa không?

Làm cho môi trường sống dễ chịu, dù tốn một ít tiền cũng đáng!

Còn các ông lão có vợ trẻ cũng chớ vội đắc ý, bởi nếu cậy có vợ trẻ mà lười biếng, chây ỳ thì e cũng sớm chầu trời!

phale
26-07-2009, 02:40 PM
Biết không thể vẫn làm
Vì vậy tôi kiến nghị, đã không ngăn nổi nạn giết người, sao chính phủ không cử người sang Italy khảo sát, về nước xây một đấu trường La Mã thật lớn để kẻ giết người có chỗ thể hiện.



Một học sinh cấp ba ở New York bị cướp tới 5 lần liền, dù không bắt được thủ phạm nhưng cậu vẫn được nhà trường tuyên dương vì giữ được mình không tổn hại gì, có thể là “giỏi bị cướp”, đáng làm tấm gương cho bạn học.

Vấn đề “bị cướp” quả thật không nhỏ. Bảy, tám năm trước cảnh sát còn đặc biệt công bố một hướng dẫn “cách bị cướp”.

Ví như đàn ông bị cướp, nếu mặc áo khoác thì nên tự động bỏ tay ra khỏi túi, bảo bọn cướp tự lấy ví, biểu thị mình đã sẵn sàng nôn hết. Còn phụ nữ thì nên tự động lấy hết tư trang tiền bạn trong túi ra nộp, tránh để cướp tự lần mò lột đồ, rồi sinh ý khác, biến cướp thành hiếp. Bản hướng dẫn của cảnh sát còn dặn dò đinh ninh: đừng ngại bỏ ngay tay ra khỏi túi áo khoác, tránh để cướp nghĩ rằng bạn chuẩn bị móc súng mà bồi trước cho bạn một phát đạn. Ngoài ra thái độ lúc bị cướp cũng phải học hỏi, không tỏ ra khúm núm, cũng không cao ngạo. Nếu bạn khúm núm như con cún, tên cướp sẽ “tiện chân” cho bạn một đạp; nếu bạn cao ngạo, thậm chí nói “Đây, cho anh!”, tên cướp sẽ cảm thấy bị coi thường. Bởi vì hắn ăn cướp chứ không phải ăn xin, cũng có lòng tự tôn, nếu không hắn đã đi ăn mày rồi (thu nhập của ăn mày ở New York rất khá!)

Nói đến đây, chúng ta không thể không khâm phục cảnh sát New York! Lí lẽ củ họ rất đơn giản: bị cướp là chuyện nhỏ, tính mạng mới là chuyện lớn. Nếu là vụ cướp thì họ có thể không phải đi phá án, còn là án mạng thì không thể không đi. Để nhàn thân, và vì sự an toàn của người dân, cảnh sát mới đưa ra bản “hướng dẫn’ kia.

Hay hơn nữa, đầu năm nay, chính quyền thành phố New York còn nghĩ ra cách cung cấp miễn phí xơ-ranh cho bọn bán lẻ ma túy, phát bao cao su cho tù nhân để tránh lây lan HIV! Có điều, người ta không khỏi không nghĩ, làm thế nào để phát xơ-ranh cho bọn bán lẻ ma túy? Nếu biết rõ chúng bán thì sao không bắt luôn?

Ngoài ra, hàng chục nghìn (e đến hàng trăm nghìn) lưu học sinh tiểu học ở Mỹ cũng được đãi ngộ đặc biệt. Bởi chính phủ Mỹ quy định, học sinh tiểu học-bất kể cha mẹ các em có nhập cư bất hợp pháp hay không-đều được hưởng nền giáo dục miễn phí. Thậm chí chính phủ còn nghiêm cấm điều tra nhập cư bất hợp pháp ở các trường học, tránh xâm phạm tới quyền được học tập của các em.

Từ những ví dụ trên, chúng ta có thể nói, đó là những việc “biết không thể vẫn làm”. Không ngăn được thì chính phủ “hợp tác”. Mục đích cuối cùng là: Nhân đạo.

Với dự trữ ngoại tệ hơn 70 tỷ đô la Mỹ, Đài Loan giờ đã sánh vai với cường quốc năm châu, về mặt này chúng ta cũng không thể thua họ. Một số biểu hiện gần đây của Đài Loan thì nhiều nước theo không kịp. Ví dụ:

Đoàn biểu tình chưa được phép mà vẫn diễu hành, cảnh sát sẽ dựng hàng rào, tránh cho “người bị kháng nghị” khỏi bị thương, người biểu tình khỏi náo loạn và người qua đường khỏi tai bay vạ gió.

Rõ ràng nhà xây cao vượt mức quy định, đại khái chính phủ biết là ngăn không được nên “phạt cho tồn tại”, thậm chí còn đưa ra bản “thiết kế mẫu” để những hộ dân xây trái quy định làm theo.

Cục hành chính nhân sự của Viện Hành chính đã ra quy định ngày nghỉ Tết âm lịch, nhưng đại khái biết có nơi không tuân theo nên bồi thêm một câu: các cơ quan tùy hoàn cảnh mà điều chỉnh.

Dải phân cách phía trước công ty bách hóa ở đường Trung Hiếu đã trồng cây, dựng hàng rào sắt, rồi cả hàng rào composite để ngăn người vượt qua, vậy mà vẫn nghiễm nhiên chừa một khe nhỏ cho người quen phá luật giao thông có chỗ lách. E rằng sau này chính phủ còn lát cả gạch gốm để tránh cho họ khỏi bẩn quần lúc trời mưa!

Những chuyện như vậy chẳng khiến người ta vỗ tay mà than rằng: Chính phủ yêu dân đến mức không việc gì là không chiều. Người Mỹ làm việc “biết không thể vẫn làm” chỉ để thực hiện mục đích nhân đạo và bảo vệ tính mạng con người; chính phủ ta còn hơn một mức: bảo vệ sự tùy tiện của người dân.

Thậm chí gần đây còn nghe kiến nghị, đua xe chặn không nổi, sao không xây hẳn một trường đua thật rộng, cờ bạc ngăn không nổi, sao không mở luôn sòng bạc nhà nước. Vì vậy tôi kiến nghị, đã không ngăn nổi nạn giết người, sao chính phủ không cử người sang Italya khảo sát, về nước xây một đấu trường La Mã thật lớn để kẻ giết người có chỗ thể hiện?

Ngoài ra, nước ngoài còn xây hẳn tường cho những thanh niên thích thể hiện bản thân vẽ lên, chúng ta sao không làm hẳn những trạm điện thoại, đèn đường, xe taxi giả, chuyên cung cấp cho những kẻ vẽ bẩn phát huy. Như vậy dân được phát huy sở thích, còn chính phủ tạo dựng được hình ảnh văn minh để làm gương cho thế giới!