PDA

View Full Version : Nghệ sĩ Phùng Há qua đời



chuột con
05-07-2009, 09:53 PM
Nghệ sĩ nhân dân Phùng Há qua đời

Được coi là vị tổ cuối cùng của nghệ thuật cải lương Nam Bộ, vào lúc 0h30 sáng 5/7, NSND Phùng Há đã trút hơi thở cuối cùng tại bệnh viện Nguyễn Trãi (Sài Gòn). Bà hưởng thọ 99 tuổi.

Cách đây 3 tháng, ngày 30/4, vẫn còn khỏe mạnh và minh mẫn, NSND Phùng Há đã tổ chức lễ mừng thọ 99 tuổi. Nhưng 1 tuần trở lại đây, sức khỏe của nữ nghệ sĩ đột ngột xấu đi nên bà phải nhập viện để các bác sĩ theo dõi và điều trị bệnh thiếu máu ở người già. Tuy nhiên do tuổi cao, sức yếu, nghệ sĩ Phùng Há đã không vượt qua được cơn bệnh cuối cùng.

http://vnexpress.net/Files/Subject/3B/A1/0E/4C/1.jpg

Trong suốt 99 năm dương trần, NSND Phùng Há cống hiến phần lớn thời gian cho nền nghệ thuật sân khấu nước nhà. Ngoài ra bà còn sáng lập nên Viện dưỡng lão nghệ sĩ ở quận 8, TP HCM và chùa Nghệ sĩ ở quận Gò Vấp để chăm lo, nuôi dưỡng các nghệ sĩ già yếu, neo đơn. Bà cũng chu đáo lập nên cả nghĩa trang Nghệ sĩ cũng ở quận Gò Vấp làm nơi an táng các nghệ sĩ khi qua đời.

NSND Phùng Há được nhiều khán giả, bạn bè và người dân yêu mến bởi những đóng góp to lớn trong nghệ thuật và tấm lòng cao đẹp của bà trong đời sống. Tuổi đã cao, nữ nghệ sĩ vẫn thường tham gia các hoạt động từ thiện, tặng quà cho bà con nghèo. Cách đây gần 3 tháng, nhân dịp kỷ niệm sinh nhật lần thứ 99, mặc dù tuổi cao, sức yếu nhưng nghệ sĩ Phùng Há vẫn kiên quyết theo đoàn từ thiện của chùa Nghệ sĩ đi thăm hỏi, phát thuốc, khám bệnh cho bà con nghèo của tỉnh Bình Phước.

http://vnexpress.net/Files/Subject/3B/A1/0E/4C/3.jpg

Việc NSND Phùng Há qua đời để lại nhiều thương tiếc cho người thân, học trò, bạn bè, đồng nghiệp và các khán giả hâm mộ nghệ thuật cải lương.

14h chiều 5/7, lễ tẩm liệm NSND Phùng Há được tổ chức tại chùa Nghệ sĩ, quận Gò Vấp, TP HCM. 18h cùng ngày, thi hài bà được di quan đến nhà tang lễ thành phố và 10h ngày 8/7 linh cữu nữ nghệ sĩ sẽ được đưa về chùa Nghệ sĩ và an táng tại nghĩa trang Nghệ sĩ quận Gò Vấp.

Nguồn: vnexpress.net (http://vnexpress.net/GL/Van-hoa/2009/07/3BA10E4C/)

chuột con
05-07-2009, 10:10 PM
CÔ BẢY PHÙNG HÁ*

VÕ ĐẮC DANH

Chồng , con, và cả những người tình cũng lần lượt đi về bên kia thế giới. Theo thuyết giáo của nhà Phật, khi ta sống, cái gì ta cho thì cái đó chính là tài sản, ở lại với ta. Phải chăng, những thứ quý giá mà cô đã cho, đó chính là những vai diễn, những môn sinh mà Cô đã nhọc công đào tạo để làm nên một thế hệ cải lương vàng son, vang bóng một thời.


http://vietsciences.free.fr/vietnam/amnhac/images/PhungHa150c.jpg


TRĂM NĂM NHÌN LẠI

Ông Trương Nhân Trưởng, người làng Phú Lạng, huyện Hạc Sơn, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Những năm cuối thế kỷ XIX, ông đi làm thuê cho một vựa trái cây ở Quảng Tây, một buổi tối, ông nghịch ngợm lấy viên pháo nhét vào bính tóc của một người bạn rồi châm tàn thuốc lên ngòi pháo, pháo nổ, bính tóc bay mất. Chuyện chỉ có vậy, nhưng ông bị nhà chức trách truy nã về tội mưu sát, phải rời bỏ nhà cửa, vợ con và tổ quốc để làm kẻ lưu vong sang ViệtNam. Đến Mỹ Tho, ông làm nghề mua bán thịt bò. Tại đây, ông kết hôn với bà Lê Thị Mai, một thôn nữ đẹp người đẹp nết ở làng Điều Hòa và sinh được bảy người con, bốn trai ba gái.

Câu chuyện về ông sẽ không được ai biết đến, sẽ không có gì để kể thêm. Nhưng chính cái ngả rẽ vô tình của cuộc đời ông lại là cội nguồn của nghệ sĩ Nhân dân Phùng Há. Khác với những người Hoa khác, con cái của ông Trưởng lớn lên đều được ông đưa về cho bà vợ lớn ở cố hương để học ngôn ngữ và lễ nghi Trung Quốc, sau đó muốn ở lại hay trở qua Việt Nam thì tùy theo điều kiện và ý thích của mỗi người. Năm 1915, ông Trưởng qua đời trong khi đang trở thành một người giàu có ở Mỹ Tho: Một lò gạch, một xưởng cưa và một trang trại nuôi bò. Cô Bảy Phùng Há lúc bấy giờ mới lên năm tuổi. Ông Trương Tích Kỳ, con trai đầu của ông Trưởng cùng với chú ruột là Trương Nhân Bá đã lập mưu chiếm đoạt cơ ngơi bằng cách giao cho bà Mai cùng với cô Bảy và người em út là Trương Nguyệt Hảo mang bộ hài cốt hỏa táng của ông Trưởng về Hạc Sơn an táng và ở lại bên ấy để thọ tang. Năm ấy, ở Quảng Đông xảy ra trận dịch đậu mùa, hàng ngàn người thiệt mạng, trong đó có Trương Nguyệt Hảo. Cô Bảy thoát chết nhưng mang trên gương mặt trẻ thơ lớm đớm vết rỗ hoa mè. Sống trong cảnh làm thiếp mà không chồng, bà Mai không chịu nổi những tập tục, lễ nghi phong kiến hà khắc của gia đình Tàu mà mọi quyền hành nằm trong tay bà chánh thất, bà Mai khóc thầm trong đau khổ, muốn trốn về quê mà túi lại không tiền. Hiểu được cảnh ấy, người con gái thứ tư của bà là Trương Liên Hảo, đang làm dâu một nhà hào phú ở Hạc Sơn, đã lén chồng bán của hồi môn để mua vé tàu cho mẹ và em về nước. Trên chuyến tàu Tây hôm ấy, mấy bà đầm phát hiện Cô Bảy Phùng Há mắc bệnh đậu mùa, họ la chóe lên, hành khách xôn xao, thủy thủ đoàn kéo cô quăng xuống biển, mẹ cô lạy lục van xin, những hành khách người Việt và người Hoa đứng ra ngăn cản. Cuối cùng họ đồng ý cho cô đi nhưng hai mẹ con cô phải cách ly, ngồi vào một góc xa phía sau hầm máy.

Về đến Mỹ Tho, bà Mai mới tá hỏa ra rằng mình không còn quyền hành gì trong ngôi nhà cũ, và tất cả cơ nghiệp của ông Trưởng đã thuộc về người em chồng và đứa con trai. Sống trong nhà mình mà con trai và con dâu luôn nặng lời chửi em mắng mẹ. Một hôm, Trương Tích Kỳ ném cho bà Mai hai chiếc vé tàu và mấy đồng lộ phí buộc bà và Cô Bảy Phùng Há trở về Hạc Sơn. Bà Mai tức tửi, nghẹn ngào dắt con gái về làng cũ Điều Hòa, tá túc trong căn chòi xơ xác của người mẹ mù lòa. Bà bị suy sụp rồi lâm bệnh. Cô Bảy Phùng Há – cô bé Trương Phụng Hảo lúc ấy – đành phải chạy ra tìm anh Hai để xin tiền lo thuốc thang, ăn uống cho mẹ và ngọai. Trong cơn say sượu và thuốc phiện, ông Kỳ đã không cho tiền mà còn nặng lời trách mắng vì đã không về Hạc Sơn theo ý muốn của ông. Cô chạy sang nhà của cha mình mà bây giờ đã thuộc về tay người chú ruột để khóc than, ông Nhân ném cho một đồng rưỡi, ông hứa mỗi tháng sẽ cấp cho mẹ con cô từ một đồng rưỡi đến hai đồng.

Bà ngoại qua đời, hai mẹ con cô tiếp tục sống trong căn chòi hiu quạnh, xác xơ, bữa rau bữa cháo. Dù trong cảnh nghèo đói, khổ đau, nhưng bà Mai vẫn vắt kiệt sức mình trong một tiệm thêu để cho con gái được đến trường. Một người bạn cũ của ông Trưởng đã giúp Cô Bảy được vào học miễn phí ở trường Ecole Jeunes Filles – một trường tiểu học của Pháp tại Mỹ Tho. Và tại nơi đây, Cô Bảy Phùng Há đã bắt đầu nổi tiếng về năng khiếu ca hát của mình. Nhưng cũng chính vì cái năng khiếu ấy mà Cô đã bị đuổi ra khỏi trường khi chưa học xong chương trình tiểu học. Hôm ấy, bà đốc học La Fuste đi vắng, bà Giáo Kỳ vốn mê giọng hát của Trương Phụng Hảo nên tổ chức cho cô hát trong giờ học của bà. Phòng học nằm cạnh ven đường nên khi cô hát, người qua đường cũng đứng lại xem, rồi những tràng pháo tay vang lên. Bất ngờ, ông chánh thanh tra Ty giáo huấn ghé qua, ông buộc tội học trò Trương Phụng Hảo làm mất trật tự học đường. Bị đuổi học, Cô Bảy Phùng Há chợt nhớ lời một nữ tu hồi cô còn học bên trường Giồng: "Con hát hay lắm, nhưng chính giọng hát của con sau nầy sẽ làm khổ đời con".

Thật ra, lúc ấy nếu Cô không bị đuổi học thì cũng không còn điều kiện nào để học. Mẹ Cô vì lao lực lẫn lao tâm mà kiệt sức, nay ốm mai đau. Để có từng bữa ăn cho hai mẹ con, Cô Bảy phải lặn hụp dưới từng con rạch, dòng sông để kiếm từng con cá bống, con tép, con cua, đi móc từng trái dừa thuê cho các chủ vườn để mua cho mẹ từng thang thuốc bắc. Một hôm, có bà láng giềng tốt bụng đã giới thiệu Cô vào làm công cho lò gạch của ông Bang Hoạch. Cứ in một trăm viên gạch, Cô được trả ba xu. Với sức vóc của cô bé lên mười, mỗi ngày Cô kiếm chưa được mười xu, nghĩa là chưa đầy một cắc bạc. Nghĩ mình từng là con của ông chủ lò gạch, bỗng dưng lại trắng tay, giờ phải ngồi in từng viên gạch, chắt mót từng đồng xu ở một lò gạch khác, lòng Cô cứ ngậm ngùi, buồn chán cho thân phận, Cô vừa làm vừa nghêu ngao hát như một sự giải bày. Nhưng mỗi lần Cô hát thì cả nhóm thợ lắng nghe. Tiếng hát của cô đã gieo vào lòng người một niềm cảm xúc đến nao lòng. Mấy chị bảo: "Từ nay em không phải làm nữa, cứ vào đây ngồi hát cho mấy chị nghe, mấy chị sẽ làm thay phần việc cho em".

Như vậy là, tiếng hát của Cô đã nuôi sống mẹ con Cô từ năm mười một, mười hai tuổi, để rồi từ nơi ấy, từ cái lò gạch ấy, tiếng hát của Cô mỗi ngày cứ vang lên, bay cao và bay xa hơn, khắp mọi miền Tổ quốc, vượt cả không gian và cả thời gian để trở thành cây đại thụ của nền nghệ thuật sân khấu nước nhà.

*

Có những lúc Cô đang hát say sưa thì bất chợt nhìn thấy một người đàn ông đứng trước cửa lò gạch nhìn vào, say sưa nghe cô hát Nhiều lần, khi Cô đang ngồi hát say sưa thì chợt thấy từ phía cửa sổ hành lang lò gạch có một người đàn ông lặng nhìn say sưa nghe cô hát. Rồi cũng bất chợt một buổi chiều khi đi làm về thì thấy người đàn ông ấy đã có mặt trong nhà cô. Mẹ Cô cho biết đó là ông Hai Cu, chủ tiệm vàng kiêm bầu gánh Tái Đồng Ban ở Mỹ Tho. Gánh Tái Đồng Ban đang gặp sự cố, con trai ông, kép hát Hai Gỏi vừa mới qua đời, người tình của anh là Cô Năm Phỉ, đào chánh, đã buồn bã ra đi. Trong khi ông đi tìm đào thay cho Năm Phỉ thì có người nói với ông rằng "Trong lò gạch của ông Bang Họach có con bé xẩm lai hát còn mùi hơn cô Năm Phỉ". Ông không tin nhưng vẫn tìm đến để cầu may. Nhưng ngay từ hôm đầu tiên đứng ngòai cửa sổ lò gạch trộm nhìn nghe Cô hát, ông đã bị hốt hồn. Một lần, hai lần, rồi ba lần . . . cứ đứng lặng người nhìn Cô say sưa hát, tiếng hát thanh cao, khi trầm khi bổng, khi quặng thắt lòng người, đôi mắt cứ lững lờ, rười rượi nỗi sầu tư, chơi vơi trong cõi hư vô khiến cho ông Hai như muốn thốt lên rằng, con ơi, con không chỉ là một thiên thần bé bỏng mà là dấu hiệu của một tài năng. Bà Mai không bằng lòng cho con mình đi theo Tái Đồng Ban bởi hai lẽ: Thứ nhất, Cô Bảy chỉ mới mười ba tuổi, thứ hai, mới mười ba tuổi mà đã dấn thân vào con đường "xướng ca vô lọai" thì ắt phải hổ danh trong cái nhìn phong kiến lúc bấy giờ. Nhưng Cô Bảy thì cương quyết: " Con không chịu nổi cái lò gạch, con phải đi hát để có tiền nuôi mẹ, ai cười chê mặc kệ, họ cười chê chớ họ có giúp mình đâu khi mẹ đói, mẹ đau". Ông Hai ra giá tám cắc bạc cho mỗi đêm hát, ngày nuôi hai bữa cơm. Cô Bảy nghe mà mừng trong bụng khi nghĩ đến cái thực tại ngồi ép gạch suốt ngày chưa được một cắc, cơm thì bữa đói bữa no, mẹ ốm đau không đủ tiền mua thuốc, nợ nần chồng chất không biết trả đến kiếp nào. Cô nói với ông Hai: "Con đồng ý nhưng xin ông hai điều kiện, thứ nhất ông cho mẹ con theo gánh hát để con chăm sóc, thứ hai, ông cho con mượn trước năm mươi đồng để mẹ con trả nợ".

Từ cái ngả rẽ bất ngờ của buổi chiều hôm ấy, Cô Bảy Phùng Há trở thành đào chánh của Tái Đồng Ban thay cho Cô Năm Phỉ và nổi danh với nhân vật Thúy Kiều, năm ấy, năm 1924, Cô mới tròn mười ba tuổi. Từ một quyết định giản đơn: "Đi hát để kiếm tiền nuôi mẹ", Cô Bảy Phùng Há đã trở thành ngôi sao sáng rực của bầu trời sân khấu cải lương, và, cũng chính cô là người đã góp sức, góp công, góp cả lòng tâm huyết để nâng niu, nuôi dưỡng nền nghệ thuật nầy từ buổi sơ khai cho đến lúc trưởng thành, đứng trên đỉnh vinh quang. Hơn nửa thế kỷ đắm mình với ánh đèn sân khâu, làm rạng rỡ tên tuổi của hàng chục đoàn hát, từ Tái Đồng ban đến Trần Đắc, Huỳnh Kỳ, Phụng Hảo, Phước Cương, Thầy Năm Tú, Việt Kịch Năm Châu . . ., hóa thân với hàng trăm nhân vật, mà nhân vật nào, dù nam hay nữ, dù danh tướng hay mỹ nhân cũng được Cô Bảy Phùng Há cũng lột tả đến tận cùng tính cánh và số phận. Oai phong, lẫm liệt với Lữ Bố, Phạm Lãi, An Lộc Sơn; đằm thắm, kiêu sa, ngọt ngào, ai oán với Vương Thúy Kiều, với Nguyện Nga, với Dương Quý Phi, với Tô Ánh Nguyệt . . . Phùng Há đã làm nên tất cả những vai diễn, và tất cả những vai diễn ấy đã làm nên một Nghệ Sĩ Nhân Dân Phùng Há.
Những mề-đai, Huân chương, Huy chương của chính phủ Pháp, của toàn quyền Đông Dương, của thống đốc Nam kỳ, của vua Bảo Đại, vua Miên, vua Lào, vua Thái Lan, của Chính phủ Trung Hoa, Hungragri, Ba Lan, Mạc Tư Khoa, Budapest, Prague, Moscou, Anh, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Bồ Đào Nha . . . chứng tỏ một tài năng sân khấu cải lương đã vượt không gian quốc gia, làm rạng rỡ nền nghệ thuật nước nhà.

Thế nhưng "Hồng nhan đa truân", cuộc đời bà không có mối tình nào trọn vẹn. Ngay từ những năm đầu đến với Tái Đồng Ban, sắc đẹp của bà đã làm ngẩn ngơ hai người thầy, một người dạy ca và một người dạy diễn: Huỳnh Thủ Trung và Năm Châu. Khi Năm Châu đang ôm mối tình câm chưa kịp nói ra thì Huỳnh Thủ Trung tuyên bố cưới cô Phùng Há. Năm Châu thất tình ra đi. Cô Bảy Phùng Há sống với Huỳnh Thủ Trung có một người con rồi chia tay vì không chịu nổi người chồng suốt ngày ngồi trong quán rượu, những chuyện ngoại tình, những trận đòn roi. Khi Năm Châu đang lưu lạc với một đoàn cải lương ngoài Bắc, được tin Cô Bảy Phùng Há thôi chồng và chuyển qua đoàn khác. Ông trở về, tìm gánh hát Trần Đắc với hy vọng nối lại tình xưa. Nhưng đò tình thêm một lần lỡ chuyến. Cô Bảy Phùng Há đã làm vợ của Bạch Công Tử và lập gánh hát Huỳnh Kỳ.

Bạch Công Tử - tức Lê Công Phước, còn gọi là George Phước, con trai của Đốc Phủ sứ Mỹ Tho Lê Công Sũng – sau khi chiếm được trái tim của Cô Bảy Phùng Há đã bỏ ra năm trăm đồng trả nợ cho Cô, chuộc Cô ra khỏi gánh Trần Đắc, lập gánh Huỳnh Kỳ cho Cô làm chủ gánh. Thời ấy, giao thông cách trở, các gánh hát lưu diễn phải thuê ghe lườn vận chuyển sân khấu, công nhân và đào kép. Bạch Công Tử đã trang bị cho Huỳnh Kỳ bốn chiếc ghe chài, ba chiếc chở đồ đạc, đào kép và công nhân, một chiếc dành riêng cho đào chánh kiêm chủ bầu Phùng Há với đầy đủ tiện nghi như một tòa lâu đài di động. Có tiền bạc, có phương tiện, Cô Bảy Phùng Há chiêu mộ những đào kép nổi danh, Huỳnh Kỳ thống lĩnh nghệ thuật sân khấu cải lương khắp Nam kỳ lục tỉnh. Nhưng chỉ được bảy năm, Bạch Công Tử sa vào con đường ăn chơi sa đọa, bao nhiêu tiền của ông ném vào sòng bạc, tiệm hút, gái tơ. Huỳnh Kỳ suy sụp, đào kép lần lượt bỏ đi, Cô Bảy ôm hai đứa con đau ốm cùng với bốn chiếc ghe chài nằm chơi vơi dưới chợ cầu Ông Lãnh. Trong cảnh khốn cùng, một người quen giúp cô ẳm con đi tìm chồng thì gặp Bạch Công Tử đang vui sống với một cô gái khác, một giai nhân nổi tiếng tên là Marie Anne Nhị ở khách sạn Minh Tân. Ông không quan tâm đến con mà lại trách mắng cô thiếu lịch sự, làm như thế là mất mặt ông với bạn gái của mình. Cô nuốt nước mắt ra về. Rồi cả hai đứa con lần lượt chết trên tay Cô trong cảnh không tiền chạy chữa, Cô đành phải chia tay với Bạch Công Tử để làm lại cuộc đời.

*

Người chồng thứ ba của Cô Bảy Phùng Há là kiến trúc sư Hoàng Phi, con trai một quan huyện ở Gò Công, cũng là bạn thân với Bạch Công Tử.
Sau năm 1945, Bạch Công Tử vừa bị phá sản, vừa nghiện ngập, vừa lâm bệnh ngặt nghèo không tiền chạy chữa. Nghĩ đến tình xưa nghĩa cũ, Cô Bảy xin phép chồng đem ông về nuôi dưỡng trong nhà tại số 3 đường Ngô Tùng Châu, Sài Gòn. Năm 1950, Bạch Công Tử qua đời trong cảnh không có đất để chôn. Cô Bảy lại xin phép chồng đưa ông về an nghỉ trên đất nhà chồng ở Gò Công, và nhờ người con riêng của chồng trông coi mộ.

Hỏi vì sao cô chia tay với ông Hoàng Phi, cô không nói. Cô chỉ nói đó là một người trí thức và tử tế.

Với nghệ sĩ Năm Châu, Cô Bảy cho rằng đó là một chuyện tình buồn và đẹp, cứ chập chờn, chập chờn như con đò lỡ chuyến suốt sáu mươi năm. Năm 1953, ngẫu nhiên Cô và Năm Châu đầu quân trở lại gánh Trần Đắc. Vở Mộc Quế Anh đã đưa ngôi vị của Phùng Há-Năm Châu thành đôi bạn diễn ăn ý số một của sân khấu cải lương. Cô cảm nhận đó là tình yêu, cả hai đã trút cạn tình yêu cho nhau qua vai diễn, những điều khát khao mà chưa bao giờ được nói với nhau. Nhưng khi bước ra phía sau bức màn nhung thì cô cảm nhận được ánh mắt chừng như mất vui, chừng như có chút hờn ghen của nghệ sĩ Kim Cúc, bạn Cô, cũng là vợ của nghệ sĩ Năm Châu. Biết lửa gần rơm rồi sẽ cháy. Cô rời gánh Trần Đắc, lặng lẽ ra đi để bảo vệ hạnh phúc của bạn mình. Cô hiểu tình yêu của nghệ sĩ Năm Châu đối với cô càng ngày càng sâu nặng. Ông viết những vở tuồng Nợ Dâu, Men Rượu Hương Tình, Sân Khấu Về Khuya như để gởi gấm, để giải bày, như để hờn trách sự lạnh lùng, bạc bẽo của Cô.
Ngày nghệ sĩ Năm Châu hấp hối, Cô chạy như điên, lê lết trên từng bậc cầu thang trong bệnh viện. Bất chấp sự có mặt của mọi người, Cô ôm chầm lấy ông, Cô gào thét: "Khoan, anh khoan hãy đi, anh hãy nghe em nói rồi mới yên lòng ra đi, em biết anh hận em, nhưng em không phải là kẻ vô tình, em làm như vậy là em hy sinh vì hạnh phúc của gia đình anh, vì vợ con anh. Anh biết không, tới giờ phút nầy em vẫn yêu anh . . ."

Chồng , con, và cả những người tình cũng lần lượt đi về bên kia thế giới. Theo thuyết giáo của nhà Phật, khi ta sống, cái gì ta cho thì cái đó chính là tài sản, ở lại với ta. Phải chăng, những thứ quý giá mà cô đã cho, đó chính là những vai diễn, những môn sinh mà Cô đã nhọc công đào tạo để làm nên một thế hệ cải lương vàng son, vang bóng một thời. Một ngôi chùa nghệ sĩ, một nghĩa trang nghệ sĩ với bốn trăm ngôi mộ và gần bốn trăm bộ hài cốt, Cô như người tự nguyện đi trước về sau, níu kéo thời gian đến tuổi 99 nầy để làm điều đó, làm cho trọn tình trọn nghĩa với thế hệ mình và cả thế hệ cháu con.
Phải, tất cả những gì mà Cô đã cho, tất cả đã và đang ở lại với Cô, bây giờ và mãi mãi.

*chuột xin được sửa lại tiêu đề của nguyên bản để phù hợp với hoàn cảnh

chuột con
05-07-2009, 10:16 PM
Phùng Há

Soạn giả Nguyễn Phương , RFA

Cháu được biết là nữ nghệ sĩ tiền phong Phùng Há, năm nay đã hơn chín mươi tuổi và nghe nói là bà vẫn còn khoẻ mạnh, bà đang sống trong chùa nghệ sĩ ở Gò Vấp. Xin bác cho cháu biết về ngày sinh, quê quán và những bước đầu khởi nghiệp của nữ nghệ sĩ Phùng Há được không ạ ?

Ðáp : Chào cô Giáo Hiếu. Tôi xin cám ơn cô đã có nhã ý muốn biết về tiểu sử của nữ nghệ sĩ Phùng Há, một danh tài mà giới nghệ sĩ cải lương chúng tôi rất kính mến, xem bà là một trong những người đầu tiên có công khai sơn phá thạch xây dựng nên nền nghệ thuật sân khấu cải lương Việt Nam.

Bà Phùng Há tên thật là Trương Phụng Hảo, sanh ngày 30 tháng 4 năm 1911 ( Tân Hợi) tại làng Ðiều Hòa , tổng Thuận Trị, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho. Tính đến nay thì bà đã được 95 tuổi dương lịch. Bà đã phụng sự sân khấu hơn 80 năm kể từ vai hát đầu tiên năm 13 tuổi, đó là vai Giả Thị trong tuồng Hoàng Phi Hổ Qui Châu của soạn giả Nguyễn công Mạnh.

Phụng Hảo họ Trương, gốc tích của dòng họ Trương là ở làng Phú Lạng, huyện Hạc Sơn, tỉnh Quảng Ðông Trung Quốc. Ông Trương Nhân Trưởng, cha ruột của nữ nghệ sĩ Trương Phụng Hảo vì chơi quấn pháo vào bím tóc của một người bạn, pháo nổ văng mất bím, sợ bị tù tội nên ông mới bỏ trốn sang Việt Nam. Ông Trương Nhân Trưởng đã có vợ bên Tàu, nhưng vì đang trốn chạy nên không mang vợ theo được.

Ông Trưởng đến Mỹ Tho làm nghề bán thịt bò, ông cưới bà Lê thị Mai, người làng Ðiều Hòa. Hai ông bà có được với nhau 7 người con: Trương Tích Kỳ,( con trai trưởng), Trương Ngân Hảo ( nữ), Trương Liên Hảo( nữ), Trương Tích Huy( nam, đã chết lúc nhỏ), Trương Tích Trung( nam), Trương Phụng Hảo( nữ) và Trương Nguyệt Hảo( nữ).

Bà Lê Thị Mai thường gọi Trương Phụng Hảo là Phùng Há, theo cách gọi của người làng quê Trung Quốc nên Trương Phụng Hảo lấy nghệ danh là Phùng Há để tưởng nhớ mẹ của mình.


Cơ duyên trở thành nghệ sĩ

Hỏi: Theo lời của bác, nữ nghệ sĩ Phùng Há là gốc người Hoa, vậy thì trong trường hợp nào, do cơ duyên nào mà bà trở thành người nghệ sĩ tài danh của sân khấu cải lương Việt Nam?

Ðáp : Hồi đó tôi cũng hỏi cô Bảy Phùng Há như vậy đó. Cô Phùng Há cho là do sự an bày của Tổ nghiệp! Cô Phùng Há cho biết là Ba cô làm ăn ở Việt Nam rất phát đạt, khi ông mất thì mẹ cô và các anh chị em cô đưa ông về an táng ở huyện Hạc San Trung Quốc, gia sản ở Việt Nam trao cho người anh cả là Trương Tích Kỳ quản lý.

Khi mẹ cô và cô trở về Việt Nam thì anh TrươngTích Kỳ muốn chiếm đoạt cả gia sản nên định mua vé tàu đưa hai mẹ con cô trở về Hạc San chớ không cho ở chung một nhà như khi Ba cô còn sống. Mẹ cô không muốn trở về Tàu, sống trong thân phận của người vợ lẽ, một thân phận chẳng khác gì con sen hay người ở đợ, nên mẹ cô dẫn cô về ở nhà với bà ngoại của cô trên chợ Giòng Nhỏ.

Bà ngoại mù lòa, mẹ cô đau yếu liên miên, Trương Phụng Hảo phải đi mò lạch, kiếm cá, kiếm tép để làm thức ăn nuôi bà và mẹ. Bà Tư trong xóm thương tình dẫn Phụng Hảo tới làm công in gạch trong lò gạch của ông Bang Hoạch ở xóm cầu đúc. Tiền công in một trăm viên được ba xu. Phụng Hảo làm không quen nên vừa làm vừa ca nghêu ngao cho đở buồn. Không ngờ những người cùng làm công trong lò gạch nghe thích quá, mới bảo cô ca cho họ nghe, họ phụ in gạch để cho cô có tiền nuôi mẹ.

Lúc đó ông Bầu Hai Cu, chủ gánh hát Tái Ðồng Ban, nghe đồn có con nhỏ xẩm lai ca hay lắm nên ông tìm tới. Nghe giọng ca của cô Phụng Hảo, ông thấy có thể đào tạo cho cô hát trên sân khấu Tái đồng Ban nên ông ký hợp đồng với cô, do mẹ cô đại diện. Ông cho mượn trước 50 chục đồng để lo thuốc thang và dưởng nuôi bà ngoại cô, lương của cô được 8 cắc mỗi suất diễn, hai mẹ con theo gánh hát được nuôi cơm và có chỗ ở. Lúc đó cô làm ở lò gạch, vừa làm vừa ca mà chỉ được có một cắc mỗi ngày thôi.

Thầy tuồng Nguyễn Công Mạnh và nghệ sĩ Năm Châu dạy cô hát, nhạc sĩ Tư Chơi dạy cô ca. Phụng Hảo siêng năng, sáng dạ nên chỉ trong một tuần lễ học là cô có thể đóng tuồng chung với kép Năm Châu. Học xong tuồng nào thì hát tuồng đó. Ông Bầu bảo lấy tên Phùng Há làm nghệ danh cho cô. Ðó, bước đầu khởi nghiệp của nữ nghệ sĩ Phùng Há là như vậy đó.

Hỏi : Thưa bác, xin bác cho biết thành phần nghệ sĩ và những tuồng tích của gánh hát Tái Ðồng Ban trong lúc đó ra sao ?

Ðáp: Thành phần nghệ sĩ gánh Tái Ðồng Ban, bên đào thì có : Phùng Há, Ba Nhàn, Ba Liên, Năm Phụng, Hai Quờn. Hai Quờn về sau là vợ của anh Ba Du.

Bên kép có : Năm Châu, Tám Mẹo, Ba Du, Tư Út, Từ Anh, Hai Bông, Năm Tỵ. Nhạc sĩ Tư Chơi tức là Huỳnh Thủ Trung, lúc đó đờn đoản, anh Tư Chơi cũng có viết tuồng hát nữa.

Tuồng hát : có các vở Hoàng Phi Hổ quy Châu, của soạn giả Nguyễn Công Mạnh, vở tuồng Thôi Tử Thí Tề Quân, Mổ Tim Tỷ Can, Anh Hùng Náo Tam Môn Nhai của soạn giả Nguyễn Thành Châu, vở tuồng Khúc oan vô lượng, Tội của Ai của soạn giả Tư Chơi. Phùng Há đóng cặp vớì anh Năm Châu được khán giả khen là rất xứng đào xứng kép.

Hỏi :Thưa bác, có phải chăng là từ Tái Ðồng Ban này nẩy sanh ra mối tình Năm Châu - Phùng Há?

Ðáp: Theo tôi biết thì mối tình đầu của nữ nghệ sĩ Phùng Há là với nhạc sĩ kiêm soạn giả Tư Chơi. Nghệ sĩ Tư Chơi là người chồng đầu tiên của nữ nghệ sĩ Phùng Há. Họ có chung với nhau một đứa con gái, đặt tên là Lý Bửu Trân. Lý Bửu Trân sanh năm 1927 và mất năm 1959 tại Saigon.


Bửu Trân mang họ Lý thay vì họ Huỳnh của cha là Huỳnh Thủ Trung vì khi cô được ba tuổi, cha mẹ cô ly dị nhau, mẹ cô gởi cô về huyện Hạc San bên Trung Quốc cho dì của cô là bà Trương Liên Hảo, nuôi dưỡng và vì vậy mà Bửu Trân lấy theo họ của dưỡng phụ là phú hào họ Lý.

Lý Bửu Trân học rất giỏi, cô thông thạo năm thứ tiếng : Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Quan Thoại, Quảng đông và Việt Nam. Trong những năm 1957, 1958, khi tiếp xúc với các phái đoàn nghệ thuật Ấn Ðộ, Mỹ quốc, Trung Hoa Dân Quốc và đoàn nhạc gỏ Pháp Quốc, Lý Bửu Trân là thông dịch viên của Hội Nghệ Sĩ Ái Hữu khi Hội tiếp xúc với các đại diện và nghệ sĩ của các phái đoàn nước bạn. Lý Bửu Trân bị bịnh ung thư máu, mất tại nhà thương Grall vào tháng 12 năm 1959.

Nữ nghệ sĩ Phùng Há có nhiều vai tuồng hát để đời, riêng vai Lữ Bố trong tuồng Phụng Nghi Ðình, khi bà Phùng Há hát vai Lữ Bố, cố nữ nghệ sĩ Thanh Nga hát vai Ðiêu Thuyền, có một nhà thơ đã tặng cho nghệ sĩ Phùng Há mấy câu thơ : mời quí thính giả nghe nghệ sĩ Phùng Há đọc mấy câu thơ nầy :

Ấy mới tài! Ấy mới duyên!
Lẵng lơ Lã Bố Hí Ðiêu Thuyền
Ai hay Lã Bố là cô ã
Ðã quyết tao…Phùng…Há dám quên!

Minh họa tiếng hát của cô Phùng Há trong vai Lựu tuồng Ðời cô Lựu. Thưa quí thính giả vừa rồi là tiếng hát của cô Bảy Phùng Há trong vai Lựu tuồng Ðời Cô Lựu của soạn giả Tư Trang.

Hỏi : Thưa bác, để tìm hiểu về nữ nghệ sĩ tài danh Phùng Há, ngoài những giai thoại về cuộc đời tình cảm của người nghệ sĩ tài năng Phùng Há, cháu hy vọng bác kể về một giai thoại nào đáng nhớ của nữ nghệ sĩ Phùng Há liên quan tới nghệ thuật sân khấu hoặc chuyện tình giữa hai tài năng lớn : Năm Châu, Phùng Há,… có như lời người đời dồn đãi hay là không có? Cháu cũng muốn được biết trong thời gian dài gần 80 năm, nghệ sĩ Phùng Há đã cộng tác với những đoàn hát nào ?

Tại sao khi giới thiệu nghệ sĩ tài danh Phùng Há, bác lại khởi đầu bằng cách kể những đoàn hát nào mà bà Phùng Há đã cộng tác?

Ðáp: Cô Hiếu vừa hỏi một câu rất hay, Thưa quí thính giả, khi tôi kể tên những gánh hát mà cô Bảy Phùng Há từng cộng tác tức là tôi đã lược thuật lại một phần cái quá trình hình thành và phát triễn của nghệ thuật sân khấu cải lương, một nghệ thuật sân khấu độc đáo của dân tộc Việt Nam.

Cô Bảy Phùng Há là người phụ nữ Việt Nam sống gần 100 tuổi mà đã cống hiến tám mươi năm của cuộc đời mình để góp phần xây dựng một nền nghệ thuật sân khấu cải lương, cô Bảy Phùng Há đã đào tạo được hàng trăm nghệ sĩ tài danh trong ba thế hệ nghệ sĩ.

Cô Phùng Há được người trong giới khen tặng là một bực minh sư, một cây đại thọ của cải lương, được phong là Nghệ sĩ Nhân dân, cô Bảy nhận được những huy chương, những bội tinh của vua Bảo đại, của quan toàn quyền Pháp ở đông Dương, của vua Miên, vua Lào, vua Thái Lan, của đại sứ Trung Hoa Dân Quốc ở Việt Nam, của chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa và của chánh phủ Việt Nam sau nầy.

Cô Phùng Há đã được tặng nhiều bằng khen, bằng tưởng niệm, huy hiệu danh dự của các nước mà cô có dịp đến biểu diễn tài nghệ như ở Pháp, Anh, Tây Ban Nha, Bồ đào Nha, Maroc, Sénégal, Thụy Diển, Thụy Sĩ, Thái Lan và Liên Xô cũ.

Cô Phùng Há cũng là người phụ nữ Việt Nam duy nhứt, không phải là người có quyền thế hay có gia tài sự nghiệp của cha mẹ để lại, nhưng cô đã thực hiện được nhiều việc từ thiện giúp cho rất nhiều
cho rất nhiều nghệ sĩ nghèo yếu neo đơn và đồng bào nạn nhân thiên tai bão lụt. Cô đã vận động quyên tiền, tổ chức hát Hội để có ngân qủy xây dựng chùa Nghệ sĩ tức là chùa Nhựt Quang, xây một nghĩa trang nghệ sĩ ở kế bên chùa.

Trong nghĩa trang đó hiện đang chôn cất hơn 400 ngôi mộ nghệ sĩ cải lương và giữ trong chùa 380 hũ hài cốt nghệ sĩ trong nước và ở hải ngoại đem về, như là hũ hài cốt của danh ca Hữu Phước, danh tài Hùng Cường, của nghệ sĩ Tư Ut, người đã chết ở thành phố Nam Vang, những nghệ sĩ miền Bắc di cư 54 như Túy định, Phúc Lai……


Nghĩa trang nghệ sĩ cải lương

Hỏi: Thưa bác, theo cháu nghĩ thì có lẽ nghĩa trang nghệ sĩ cải lương ở Việt Nam là cái nghĩa trang duy nhứt ở trên thế giới, có một đặc điểm nổi bậc là nơi đó chỉ có những phần mộ của những nghệ sĩ cải lương, không có những người ngành nghề khác được chôn chung. Phải vậy không bác ?

Ðáp: Tôi nghĩ là ở Pháp, ở Hoa Kỳ, ở Canada, và nhiều nơi khác trên thế giới, nghĩa trang là nơi an táng những người đã khuất, thân nhân của người chết có đủ tiền nong để lo việc mai táng thì ai cũng có thể có một mộ phần trong nghĩa trang đó. Riêng giới nghệ sĩ cải lương ở Việt Nam, khi về già thì đa số đều nghèo khổ, khó mà có tiền mua được một miếng đất nhỏ để gởi nắm xương tàn.

Cô Phùng Há là người hơn tám mươi năm theo nghề hát, cô hiểu cái nổi khổ tâm đó nên cô lo trước giúp cho những người nghệ sĩ nghèo yếu neo đơn. Thêm nữa khi sống thì nghệ sĩ sống quây quần bên nhau, ăn quán ngủ đình, vầy đoàn hiệp lũ thì khi mất, ở chung một nghĩa trang thì cũng thật là ấm cúng.

Khi tôi về thăm quê hương, tôi có vô chùa và nghĩa trang nghệ sĩ, quây phim, chụp ảnh, tôi nghĩ là bất cứ ai muốn tra cứu về một nghệ sĩ nào đó đã được chôn cất tại nghĩa trang nầy, có thể vào chùa và văn phòng nghĩa trang, xem các sổ sách. Trong đó có ghi nơi sanh, ngày sanh, nơi mất và ngày mất, khi sinh tiền người nghệ sĩ đó hát ở đoàn hát nào chót hết và số phone cùng địa chỉ của gia đình của thân nhân của cố nghệ sĩ đó để mình có thể liên lạc, tiện cho việc tra cứu của mình.

Về việc cứu trợ đồng bào bị thiên tai bão lụt ở miền Trung, miền Tây, đồng Tháp Mười thì cô Bảy đã dành tất cả những số tiền, thuốc men và hiện vật mà những người ái mộ cô ở trong nước và ở nước ngoài đã gởi tặng cô để làm quỷ đi cứu trợ, đồng thời cô Bảy đứng ra hô hào các nhà giàu, các thương gia, các nghệ sĩ có lòng từ thiện, quyên tiền, giúp gạo và thuốc men, cô Bảy cùng các nghệ sĩ đến tận nơi bị thiên tai bão lụt để mà trực tiếp giúp cho đồng bào nạn nhân.

Tôi biết được có hơn 20 chuyến đi cứu trợ của cô Bảy và các nghệ sĩ qua các hình ảnh và các bài báo cắt ra, lưu giữ trong Chùa Nhựt Quang trong vòng 10 năm qua nghĩa là từ khi bà được trên 80 tuổi.

Cô Bảy Phùng Há vận động quyên góp, quyên tiền lập ra Nhà Dưỡng Lão nghệ sĩ, tổ chức hát Hội quyên góp hàng tháng, đồng thời vận động đóng góp hàng tháng của các nghệ sĩ có thu nhập cao và những nhà hàng tâm hàng sản để có tiền nuôi dưỡng thuốc men lo cho các nghệ sĩ không gia đình, không vợ con và già yếu đó.

Trước đó thì bà đã giúp nhiều lần cho các nghệ sĩ đau yếu hay bị nạn trên đường lưu diễn. Xin mời quí thính giả nghe tiếng nói của nghệ sĩ nhân dân Thành Tôn nói về cô Bảy Phùng Há lúc nghệ sĩ Thành Tôn còn sinh tiền. Minh họa một câu nói của cố nghệ sĩ Thành Tôn.


Những đoàn hát từng cộng tác

Hỏi: Dạ, vậy thì xin bác giới thiệu những đoàn hát mà bà Phùng Há đã từng cộng tác.

Ðáp: Thưa quí thính giả, Nguyễn Phương xin giới thiệu những đoàn hát mà cô Bảy Phùng Há đã từng cộng tác.

- Thời kỳ 1.- từ năm 1924, khi cô Phùng Há mới bắt đầu đi hát tới năm 1945.
- Thời kỳ 2- từ năm 1946 đến năm 1954,
- Thời kỳ 3.- Từ năm 1955 đến năm 1975.
- Thời kỳ 4.- Từ năm 1976 đến năm 2001.
- Thời kỳ thứ nhứt: từ năm 1924 đến năm 1945.

Năm 1917, ở tỉnh Mỹ Tho đã có gánh hát cải lương đầu tiên của thầy Năm Tú thành lập tại tỉnh. Sau đó, năm 1920 mới có gánh hát Nam đồng Ban của ông Bầu gánh hát tên là Hai Cu, cũng là người quê ở Mỹ Tho. Con trai của ông Hai: kép chánh tên là Hai Giỏi, chồng cô nữ nghệ sĩ tài danh Năm Phỉ. Cô Năm Phỉ lớn hơn cô Phùng Há 4 tuổi.

Khi kép Hai giỏi chết vì bạo bệnh, cô Năm Phỉ mất người chồng và cũng là người bạn diễn ăn ý nhứt của cô nên cô buồn mà bỏ đi nơi khác. Ông bầu Hai vì nhớ con là kép Hai Giỏi nên năm 1924 ông lập gánh hát Tái đồng Ban, ông đã vô lò gạch, mời cô Phùng Há gia nhập gánh hát của ông, lúc đó cô Phùng Há mới 13 tuổi nhưng cô có giọng hát trong trẻo, ông Bầu Hai đã ký contrat, mời cô Phùng Há hát thay cho cô đào chánh Năm Phỉ. Gánh hát Tái đồng Ban khi mới thành lập, tập tuồng ở đình điều Hòa, quân Châu Thành tỉnh Mỹ Tho.


Nhà Dưỡng Lão Nghệ Sĩ.

- Năm 1926 - Phùng Há, Năm Châu, Tư Chơi, Ba Du gia nhập gánh hát Trần đắc của ông Bầu Trần đắc Nghĩa.
- Năm 1929 đến năm 1934 ( 18 tuổi), - cô Phùng Há làm bầu gánh hát Huỳnh Kỳ.
- Năm 1934 đến năm 1935 - cùng với Năm Châu gia nhập lại gánh hát Trần đắc.
- Năm 1935 - 1936 - nhập chung với Phước Cương (đào chánh là Năm Phỉ), lập gánh hát Phi Phụng,
- Năm 1936 - Lập gánh hát Phụng Hảo tại Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh.
- Năm 1939 - gánh hát Phụng Hảo rã.
- Năm 1940 - Lập gánh Phụng Hảo 2
- Năm 1945 - gánh Phụng Hảo 2 rã.

Trong thời kỳ đầu từ 1924 đến 1928, chúng ta thấy rõ là cô Phùng Há chỉ đi hát với tư cách làm làm công, làm diễn viên lãnh lương từng xuất hát do ông bầu gánh hát trả.

Trong bốn năm nầy cô Phùng Há hát các tuồng xã hội như Khúc Oan Vô Lượng, Lở Tay Trót đã Nhúng Chàm, đời Cô Lựu, tuồng dã sử Giọt Máu Chung Tình, tuồng Tàu, Anh Hùng Náo Tam Môn Nhai, Thôi Tử Thí Tề Quân, Phụng Nghi đình…

Từ 1929 trở về sau, cô Bảy vừa là đào chánh vừa là bầu gánh, tự mình chăm lo phần nghệ thuật trình diễn của toàn đoàn. Từ vai trò bầu gánh và là đào chánh, cô Bảy Phùng Há không lệ thuộc vào sự phân bố vai tuồng của chủ gánh hát hay của thầy tuồng mà chính là ông thầy tuồng phải đo ni đóng giày, nghĩa là tùy theo phong cách diễn xuất hay nhứt của cô Phùng Há để mà viết tuồng đúng theo sở trường của cô.

Phụng Hảo, cô gái lai Tàu nên ngay trong tiềm thức, cô Phùng Há vẫn thích hát những vở hát có cốt truyện Tàu, có lối ca như ca Quảng và có lối múa bộ, có trống có mõ, đồng lố như các dàn nhạc Quảng. Gánh hát mang tên Phụng Hảo là gánh hát chuyên hát tuồng Tàu như Phụng Nghi Dình, Mạnh Lệ Quân thoát hài, Xử án Bàng Quí Phi…

Hồi đó, người ta gọi là gánh hát, ghe hát vì đường bộ ít mở mang, xe camion cũng ít có nên đoàn hát phải di chuyễn bằng ghe chài trên sông rạch để đi từ Saigon xuống tỉnh Mỹ Tho và các tỉnh miền Hậu Giang như Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Trà Vinh…

Bạch công tử Lê Công Phước tục gọi là cậu Hai Phước Georges , bầu gánh hát Huỳnh Kỳ, chồng của cô Phùng Há, đã sắm bốn chiếc ghe chài lớn, ba chiếc để chở diễn viên, dàn cảnh và công nhân. Một chiếc ghe chài lớn khác được trang trí sang trọng như một cái villa di động để riêng cho Bạch Công Tử và cô Phùng Há ở. Tàu sà lúp kéo các ghe chài đi, không phải do trạo phu chèo chống.


Nguồn: vietsciences.free.fr (http://vietsciences.free.fr/vietnam/amnhac/phungha.htm)

chuột con
05-07-2009, 10:18 PM
Viếng thăm nghệ sĩ tiền phong Phùng Há

Soạn giả Nguyễn Phương

Vừa rồi Nguyễn Phương đi du lịch qua nhiều nước, thăm viếng những nghệ sĩ cải lương Việt Nam đang định cư để tìm thêm các tài liệu cổ nhạc và tìm hiểu tiểu sử và hoạt động của các nghệ sĩ cải lương thế hệ đồng thời với Nguyễn Phương và các thế hệ sau để giới thiệu với quí thính giả.

Các nghệ sĩ Tú Trinh, Kiên Giang, Viễn Châu, Thanh Cao, ông Bầu Xuân, nhiếp ảnh viên Huỳnh Công Minh và ông Ngọc Anh, chủ trương trang Web Cải Lương Việt Nam, đã hướng dẫn Nguyễn Phương đi thăm viếng nhiều bạn nghệ sĩ cũ của Nguyễn Phương.

Hôm nay ông Ngọc Anh, chủ trang Web Cải Lương Việt Nam điện thoại qua Montréal thăm hỏi sức khoẻ của Nguyễn Phương và có mấy câu phỏng vấn. Tôi nghĩ là ông Ngọc Anh muốn giới thiệu với 15.000 thành viên của trang Web của ông về việc ông đã cùng với Nguyễn Phương viếng thăm các nghệ sĩ.

Tôi nghĩ rằng khi trả lời các câu phỏng vấn của Ngọc Anh là tôi được trực tiếp tường trình cùng quí thính giả của Đài RFA về tin tức của các nghệ sĩ mà tôi đã viếng thăm.

Những câu hỏi của ông Ngọc Anh chia ra hai vấn đề : phần một là hỏi về tình hình sức khoẻ và hoạt động của các nghệ sĩ quen biết cũ của Nguyễn Phương. Phần hai là hỏi về nhận xét các chương trình Vầng Trăng Cổ Nhạc, Làn Điệu Phương Nam và tuồng cải lương hát ở rạp Hưng Đạo mà Nguyễn Phương đã được xem. Xin mời quí thính giả nghe phần 1 của cuộc đối thoại nầy.

Ông Ngọc Anh: Thưa bác Nguyễn Phương, bác về Việt Nam thăm quê hương, chắc là thế nào bác cũng đi tìm thăm các bạn nghệ sĩ cải lương, bạn cũ của bác. Hai bác có đến thăm bà Bảy Phùng Há và viếng chùa nghệ sĩ không? Bà Bảy có khoẻ không ?


Tiêu biểu cho nghệ thuật và nghệ sĩ cải lương

Tủ kiếng trưng bày những tặng vật, những huy chương, médailles mà bà đã nhận được trong hơn 80 năm theo nghề hát cải lương và dạy hát. Hình của Soạn giả Nguyễn Phương

Nguyễn Phương: Thưa quí thính giả, ông Ngọc Anh thân mến, Lần nào về thăm quê hương, vợ chồng Nguyễn Phương cũng viếng thăm bà Bảy Phùng Há trước tiên. Bà Bảy Phùng Há là người tiêu biểu cho nghệ thuật và nghệ sĩ cải lương, người cao niên nhất trong giới nghệ sĩ mà cũng là người có ảnh hưởng sâu rộng trong giới nghệ sĩ về đạo đức nghề nghiệp.

Bà Bảy đã đào tạo hàng trăm nam nữ nghệ sĩ tài danh trong các thập niên 60, 70, Bà khuyến khích và tự mình làm gương trong việc tương thân tương ái giữa các nghệ sĩ và nêu gương làm việc từ thiện trong nhiều chục năm qua.

Các nghệ sĩ thế hệ thứ hai, thứ ba noi theo gương bà Bảy, nổi danh về việc làm từ thiện như Út Bạch Lan, Lệ Thủy, Kim Cương, Tú Trinh, Kim Hoàng - Như Mai, ông Bầu Xuân, nhà tổ chức đại nhạc hội Duy Ngọc, nhạc sĩ Ngọc Sơn, Ngọc Anh trang Web cải lương.

Rất nhiều nghệ sĩ khác thế hệ thứ hai, thứ ba, thứ tư, các bác sĩ trong các bệnh viện thành phố và rất nhiều nhà thương buôn ở các chợ An Đông, Chợ Bến Thành, chợ Cầu Ông Lãnh, các công ty thương nghiệp đã hưởng ứng theo lời kêu gọi cứu trợ nạn nhân bảo lục và đồng bào già, nghèo yếu neo đơn của bà Bảy Phùng Há mà đã thường xuyên góp tiền của và công sức mỗi khi Bà Bảy Phùng Há và Chùa Nghệ Sĩ tổ chức việc làm từ thiện kể trên trong hơn một chục năm gần đây.

Mấy lần đến thăm bà Bảy, tôi đều có nghe tiếng hát ca của Bà. Thấy tôi có vẻ ngạc nhiên, ông Bầu Xuân giải thích : “Chúng tôi thỉnh thoảng cho hát băng một số tuồng hay trích đoạn mà bà Bảy hát khi còn trẻ, hay những băng tiếng hát khi Bà dạy diễn xuất cho các học viên sân khấu. Bà nghe Bà rất vui vì Bà thường hay nhắc đến các vai tuồng đó.”

Đây là một sáng kiến giúp cho Bà nhớ những người bạn diễn, nhớ sân khấu, tránh tình trạng mất trí nhớ của người già. Nhà của Bà Bảy cất sau chùa nghệ sĩ, gồm có một phòng khách mỗi bề độ bốn thước, phòng ngủ độ chừng 36 thước vuôn và một phòng vệ sinh. Trước cửa phòng khách là đường ra bên hông chùa và nghĩa trang nghệ sĩ.


Một bảo tàng viện nhỏ

Phòng khách của bà Bảy Phùng Há được trang trí như một bảo tàng viện nhỏ ghi dấu cuộc đời hoạt động nghệ thuật của Bà. Phía trên kệ cao là bàn thờ đức phật bà Quan Âm, tầng kế thờ hai vị Hòa Thượng trụ trì chùa Nghệ Sĩ trước tiên (ông Năm Công nguyên quản lý hánh hát và danh ca Thanh Tao, tôi không biết Pháp danh của hai vị nầy).

Kế bên dưới là tủ kiếng trưng bày những tặng vật, những huy chương, médailles mà bà đã nhận được trong hơn 80 năm theo nghề hát cải lương và dạy hát.

Có 9 médailles bà được tặng thưởng trong thời kỳ Pháp thuộc( từ năm 1930 đến năm 1954): médaille của chánh phủ Pháp bên chánh quốc tặng, của quan toàn quyền Pháp ở Đông Dương, của quan thống đốc Nam Kỳ, của Vua Bảo Đại, Vua Miên, Vua Lào, Chánh phủ Trung Hoa Dân Quốc, Vua Thái Lan và huy chương của chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa, nhiều huy chương và kỷ niệm chương ngoại quốc khi bà qua Pháp sinh sống (sau khi chánh phủ Nguyễn Khánh đỗ) từ năm 1964 đến năm 1967, bà và nữ nghệ sĩ Kim Cương được mời biểu diễn ở nhiều nước Hung Gia Lợi, Ba Lan, Mạc Tư Khoa và nhận được những huy chương nghệ thuật trong các buỗi biểu diễn ở Budapest, Prague, Moscou; ngoài ra Bà còn có huy hiệu Nghệ sĩ nhân dân và nhiều huy hiệu khác sau 1975.

Trên vách phòng khách treo nhiều ảnh chụp của Bà trong vai Lữ Bố, ảnh 8 Lữ Bố môn sinh của Bà, ảnh của Bà chụp với các ban chấp hành Hội Nghệ Sĩ Ái Hữu, ảnh Bà chụp với Kim Cương khi diễn Lữ Bố - Điêu Thuyền ở nhà hàng Table des Mandarins ở Pháp, ảnh chụp với anh Năm Châu trong tuồng Hồn Bướm mơ tiên, tuồng Vợ và Tình, ảnh chụp với nữ nghệ sĩ Đổ Quyên, và nhiều khuôn hình chụp những chuyến Bà đi cứu trợ đồng bào nạn nhân bão lục ở Đồng Tháp Mười, ở tỉnh Tiền Giang, ở Cai Lậy, ở miền Trung.

Vợ chồng tôi, bầu Xuân, Tú Trinh vào phòng ngũ của Bà để thăm Bà vì Bà không được khoẻ. Bà ngồi trên giường tiếp chuyện chúng tôi, có mặt hai cô thiện nguyện viên túc trực chăm sóc bên Bà.


Nguyện vọng

Bà Bảy Phùng Há đã 96 tuổi, sức yếu nhưng tinh thần vẫn còn minh mẫn. Khi gặp tôi, bà nhớ ngay Nguyễn Phương là soạn giả đoàn Phước Chung, đoàn Thanh Minh Thanh Nga. Bà nói chuyện với vợ chồng tôi, vẫn thường gọi là anh chị, vì theo bà thì soạn giả là thầy tuồng, phải gọi bằng anh mới đúng.

Bà cầm tay vợ tôi, nói : “Chị Ba về, lần nào cũng ghé thăm tui. Trước khi về bễn, chị Ba ráng tới thăm tui lần nữa nghe. Sợ, lâu quá, chị hõng gặp tui được nữa.” Vợ tôi đã khóc rất nhiều khi nghe câu nói đó của bà Bảy.

Bà nói mỗi sáng Bà được cô Kim Hà và cô Hường, hai thiện nguyện viên dìu bà và theo bà đi bộ một vòng nhỏ trong khuôn viên chùa hay nghĩa trang nghệ sĩ, sau đó vô nhà Bà dùng cháo rồi ngồi đọc kinh hoặc thiền, Bà tiếp khách khi có người đến viếng. Buổi chiều và tối, Bà ngồi trên giường đọc kinh. Hai cô thiện nguyện viên Hường và Kim Hà thay phiên nhau, lúc nào cũng có một người túc trực bên bà Bảy để giúp đỡ khi cần.

Ông Bầu Xuân cho biết là các bác sĩ thiện nguyện thường xuyên chăm sóc sức khoẻ của bà Bảy, lo về chế độ ăn uống và thuốc men cho bà Bảy.

Bà nói với tôi : “Nguyện vọng của tôi là làm sao quyên tiền để lập một ký nhi viện cho các con em nghệ sĩ. Tôi đã lo cho giới nghệ sĩ được một cái chùa, một nghĩa trang, một viện dưỡng lão. Bây giờ nếu lo được một cái ký nhi viện cho con em nghệ sĩ nữa thì tốt quá. Tôi mãn nguyện rồi.” Tôi chỉ dạ dạ, không thể nói rõ là sân khấu cải lương xuống dốc thê thảm, nghệ sĩ kiếm sống còn quá khó khăn, không còn cảnh nghệ sĩ gánh hát sống tập trung như xưa, làm sao có con em nghệ sĩ để gỡi vô ký nhi viện?

Trong phòng ngủ của Bà, ngoài tủ đựng quần áo của Bà, có một cái bàn dài để nhiều tặng vật của khán giả ái mộ, trên vách phòng treo hai câu đối và bài thơ của soạn giả Viễn Châu tặng :

Đất nghệ sĩ bình an, Lao xao lá rụng bên thềm, ngỡ nhạc khúc bi hùng nơi hí viện,
Chùa Nhựt Quang thanh tịnh, Phảng phất hương bay trước gió, nghe hồi chuông cứu khổ giữa thiền môn.


Chín mấy lần xuân bạc mái đầu
Trọn đời giữ vẹn nghĩa tình sâu
Đói nghèo xót trẻ nhiều cơ cực
Lụt lội thương ai lắm dãi dầu
Muôn nỗi đoạn trường sao kể xiết
Chút tình nghệ sĩ thắm vào đâu!
Đêm đêm qùy trước ngôi Tam Bảo
Nước mắt tràn theo tiếng nguyện cầu.


Suốt đời làm việc thiện

Trên vách còn treo thủ bút của họa sĩ Vũ Hối, và bài thơ Kiếp Tầm và Nợ Dâu của thi sĩ Kiên Giang, ngoài ra còn rất nhiều thi văn của các nghệ sĩ, thi sĩ, nhạc sĩ sáng tác ca ngợi 70 năm phục vụ sân khấu của Bà( năm 2001)

Đón cái Tết Đinh Hợi năm 2007 (bà sinh năm Tân Hợi năm 1911), Viễn Châu lại tặng bà 4 câu thơ :

Tuổi già lụm cụm thấy mà thương,
Đâu quản gần xa mấy chặng đường
Quà tặng trao tay người khốn khổ
Đẹp đời nghệ sĩ, đẹp quê hương.

Vợ chồng tôi biếu Bà một triệu đồng, cúng một triệu đồng để góp phần nhang đèn cho chùa nghệ sĩ và cho cô Kim Hà một trăm đô CAN để cô chăm sóc cho bà Bảy, sau đó chúng tôi vô chùa, thắp nhang, lạy phật rồi ra nghĩa trang thắp nhang cho các ngôi mộ của các bạn Út Trà Ôn, Ba Vân, Tư Chơi, Hoàng Giang, Hà Triều, Hoa Phượng, Hoàng Việt, Thanh Nga, Phạm Duy Lân, nhạc sĩ Năm Cơ, Chín Trích (phụ thân của nghệ sĩ Tú Trinh)…

Ra về, lòng tôi cứ miên man suy nghĩ : Trọn đời Bà cống hiến cho nghệ thuật, trọn đời giúp đỡ cho đồng nghiệp mấy thế hệ, giúp trong việc đào tạo tài năng và cứu trợ khi gặp nạn hay nghèo yếu neo đơn, trọn đời bà làm việc từ thiện giúp đồng bào kém may mắn hơn mình và đã nêu gương, khuyến khích các nghệ sĩ và các nhà hằng tâm hằng sản theo bà làm công tác xã hội, làm việc từ thiện…, trên thế giới nầy có người nghệ sĩ nào như bà Bảy Phùng Há không?

nguồn: vietsciences.free.fr (http://vietsciences.free.fr/vietnam/amnhac/phungha.htm)

CM4Q
06-07-2009, 12:12 AM
Nén hương lòng cho Bà Bảy . 4Q cũng là con nhà Tông mà không giống lông giống cánh .Tuy vậy 4Q rất mê cải lương .Hồi Bé xíu xíu thường đứng ngoài cửa để xem trộm Bà 7 dạy các anh chị khóa đầu tiên của trường THT( sau 75 ) .Thời gian trôi qua nhanh quá ...mới đó đã hơn 30 năm rồi . Với 99 mùa xuân Bà đã cống hiến rất nhiều cho nền cải lương .Bà xứng đáng được tôn vinh .Là cây đại thụ của cải luông VN . Không có lời nào nói hết được sự thương cảm đối với Bà Bảy .Chỉ vài lời nhớ thương đến Bà và lòng 4Q luôn nguyện cho hương hồn Bà tiêu diêu miền cực lạc .